Truyền giáo là hoạt động đương nhiên của Thiên Chúa Giáo ngay từ khi tôn giáo này mới ra đời. Những người tiên phong của hoạt động đó là Thánh Pierre, Thánh Paul, và sau đó là các vị tông đồ của Jésus. Trải qua nhiều thế kỷ hoạt động tích cực và nhiệt thành của các sứ đồ, dù gặp nhiều khó khăn, gian khổ, hy sinh, đạo Thiên Chúa đã thành công rực rỡ. Và từ cuối thế kỷ IV trở đi, nó trở thành một tôn giáo lớn mạnh nhất Châu Âu. Không những thế, từ đó Giáo hội Thiên chúa còn là một thế lực chính trị mạnh nhất, bao trùm lên cả chính quền phong kiến ở Châu Âu trong suốt 10 thế kỷ của thời trung cổ.
Từ cuối thế kỷ XV trở đi, đặc biệt là từ sau khi xảy ra sự kiện phát kiến địa lý – tìm ra châu Mỹ, ở các nước phương Tây đã xuất hiện sự bùng nổ về truyền giáo, Giáo hội La Mã và các quốc gia sớm phát triển ở Châu Âu đều cho thành lập những giáo đoàn và liên tiếp cử các giáo sĩ Thừa sai đi sang các miền đất mới – chủ yếu là Trung và Nam Mỹ, hay vùng đất Viễn Đông để truyền đạo.
20 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1422 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đồ án Vai trò của các giáo sĩ thừa sai paris trong kế hoạch xâm lược và bình định Việt Nam của thực dân pháp từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
NGUYỄN THỊ KIM THOA
1582203130016
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
VAI TRÒ CỦA CÁC GIÁO SĨ THỪA SAI PARIS TRONG KẾ HOẠCH XÂM LƯỢC VÀ BÌNH ĐỊNH VIỆT NAM CỦA THỰC DÂN PHÁP TỪ THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XIX
Chuyên đề:
TÔN GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã ngành: 60220313
Lớp: CH15LS01
PGS.TS ĐỖ QUANG HƯNG
BÌNH DƯƠNG, THÁNG 7 NĂM 2016
MỤC LỤC
Contents
Sự thành lập Hội thừa sai Paris – nơi đào tạo bài bản cho các giáo sĩ thực hiện công cuộc truyền giáo gắn với nhiệm vụ chính trị
Truyền giáo là hoạt động đương nhiên của Thiên Chúa Giáo ngay từ khi tôn giáo này mới ra đời. Những người tiên phong của hoạt động đó là Thánh Pierre, Thánh Paul, và sau đó là các vị tông đồ của Jésus. Trải qua nhiều thế kỷ hoạt động tích cực và nhiệt thành của các sứ đồ, dù gặp nhiều khó khăn, gian khổ, hy sinh, đạo Thiên Chúa đã thành công rực rỡ. Và từ cuối thế kỷ IV trở đi, nó trở thành một tôn giáo lớn mạnh nhất Châu Âu. Không những thế, từ đó Giáo hội Thiên chúa còn là một thế lực chính trị mạnh nhất, bao trùm lên cả chính quền phong kiến ở Châu Âu trong suốt 10 thế kỷ của thời trung cổ.
Từ cuối thế kỷ XV trở đi, đặc biệt là từ sau khi xảy ra sự kiện phát kiến địa lý – tìm ra châu Mỹ, ở các nước phương Tây đã xuất hiện sự bùng nổ về truyền giáo, Giáo hội La Mã và các quốc gia sớm phát triển ở Châu Âu đều cho thành lập những giáo đoàn và liên tiếp cử các giáo sĩ Thừa sai đi sang các miền đất mới – chủ yếu là Trung và Nam Mỹ, hay vùng đất Viễn Đông để truyền đạo.
Sự bùng nổ và truyền giáo đó, trước hết, thể hiện ý đồ của Giáo hội La Mã muốn gây thế lực thần quyền cũng như thế quyền ở những vùng đất mới như là một đối trọng đối với sự lấn lướt của thế lực tư bản Châu Âu.
Song nguyên nhân quan trọng nhất của hiện tượng này lại chính là nhu cầu thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu châu. Muốn thâm nhập vào những vùng đất mới, chinh phụ thổ dân, phát hiện những tài nguyên phong phú,giai cấp tư sản thấy cần phải có một đội ngũ những người có tri thức về khoa học tự nhiên cũng như về khoa học xã hội, lại ít gây ra sự hoài nghi và phản ứng của những người bản xứ. Vào thời điểm ấy, những con người như thế chỉ có thể tìm thấy ở các giáo sĩ được đào tạo có bài bản trong các nhà Dòng của Giáo hội. Thế là các nước Châu Âu sớm phát triển như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp, đua nhau thành lập các giáo đoàn, tập hợp và đào tạo các thầy tu thành các giáo sĩ Thừa sai để đáp ứng cho yêu cầu nói trên. Kinh phí, mục đích, yêu cầu đào tạo cũng như nhiệm vụ cụ thể của các giáo đoàn đều do nhà nước hoặc các tổ chức tư nhân, chủ yếu là những nhà tư sản quyết định. Do đó bản chất của các giáo đoàn và sứ mạng của các giáo sĩ Thừa sai đã thay đổi cơ bản về chất. Về mặt hình thức thì đây là các tổ chức tôn giáo để các nhà truyền giáo thực hiện lời dạy của chúa Jesus, song về thực chất, công cuộc truyền giáo lúc này đã mang một nội dung ý nghĩa khác hẳn.
Giữa thế kỷ XVII, kinh tế của Pháp cũng đang ở vào thời kỳ chuyển hóa sang kinh tế tư bản chủ nghĩa. Thế kỷ XVI và XVII ở Pháp đang thịnh hành chủ nghĩa trọng thương. Chủ nghĩa này đề ra hai yêu cầu cho thương mại lúc bấy giờ: tăng gia tiền bạc ở trong nước bằng cách mua ở ngoài càng ít càng tôt và tăng gia xuất cảng công nghệ phẩm càng nhiều càng tốt. Chủ trương này đã được chính phủ đương thời thừa nhận. Nó cũng dẫn đến việc tăng cường tìm kiếm thêm đất mới để phục vụ cho chủ trương trê. Sự ổn định về chính trị và tôn giáo từ thời Henry IV trở đi càng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngoại thương và thuộc địa.
Giáo chủ Richelieu, Tể tướng của triều Louis XIII là người rất tích cực phát triển thuộc địa và ngoại thương. Ông cho thành lập chừng 20 công ty lớn (từ năm 1626 đến 1661) và cho hưởng những đặc quyền rất lớn: đặc quyền thương mại và được trợ cấp. Nhiệm vụ của các công ty này là tổ chức và sắp xếp các đất thực dân, đưa đón các “cô lông” (người đi thực dân) và các giáo sĩ đến các thuộc địa. Nhờ hoạt động của các công ty này, nước Pháp đã chiếm và xây dựng được một hệ thống thuộc địa ở châu Mỹ, Phi và châu Á. Ở châu Mỹ, Pháp có thương điếm Montréal, đảo Martinique, Grenade, Tobago. Ở châu Phi, Pháp lập thương điếm Saint Louis. Công ty Đông Phương (thành lập năm 1642) chiếm đảo Bourbons, Sainte Marie, hải cảng Dauphin.
Đồng thời với việc thành lập các công ty thương mại, chính phủ Pháp cũng tích cực thành lập các Hội truyền giáo đối ngoại – Giáo đonà Franciscains và giáo đoàn Sulpiciens được thành lập để truyền giáo và hoạt động ở châu Mỹ. Hôi thừa sai Paris được thành lập năm 1663, dưới thời Colbert, nhằm hoạt động ở Viễn Đông. Đằng sau mỗi giáo đoàn là quyền lực và quyền lợi của một quốc gia đang ngày càng bị chi phối bởi giai cấp tư sản đang lớn mạnh, Hội thừa sai Paris do giai cấp tư sản Pháp chi phối. Các giáo sĩ Thừa sai không còn là những người truyền giáo thuần túy nữa, họ đã trở thành những người tuy mang danh nghĩa tôn giáo, song thực chất lại là những phái viên của một quốc gia với nhiệm vụ phục vụ cho lợi ích của quốc gia đó, cụ thể trong bản điều trần của Hội thừa sai Paris gửi Chính phủ Pháp năm 1790 đã ghi: “Hội thừa sai Paris là tổ chức duy nhất của Hội các thầy tu thế tục gồm toàn người Pháp (), có sứ mạng đem ánh sáng của Đức tin và phát huy ảnh hưởng của nước Pháp đến các nước phương Đông”, giáo sĩ của Hội “không quyên lợi ích của nước mìnhHọ đã và sẽ mãi mãi có nhiệu vụ thông báo cho Nhà nước mọi phát kiến và tin tức cần thiết mà họ đạt được bằng con đường khoa học, văn học, hoặc bằng con đường thương mại. Họ tạo điều kiện cho việc buôn bán mà nước Pháp đã tiến hành ở các nước phương Đông và chính họ đã đứng ra tổ chức Công ty Đông Ấn đầu tiền” [Nguyễn Văn Kiệm (2003); tr. 84].
Hội thừa sai Paris ra đời trong lúc nền kinh tế Pháp đang trên đà chuyển hóa mạnh sang chủ nghĩa tư bản và cùng với sự chuyển hóa đó, chủ nghĩa thực dân tư bản và cùng với sự chuyển hóa đó, chủ nghĩa thực dân Pháp đã bắt đầu hoạt động. Sự ra đời của Hội trong hoàn cảnh ấy sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi cho việc đẩy mạnh giai đoạn chuyển hóa mạnh sang tư bản chủ nghĩa của kinh tế Pháp. Chính quyền và thương nhân Pháp tích cực hoạt động cho sự ra đời của Hội thừa sai Paris cũng là lẽ đương nhiên, đáp ứng được kịp thời yêu cầu của lịch sử nước Pháp lúc ấy xét về phương diện phát triển kinh tế. Hoàn cảnh lịch sử ấy có tác dụng quyết định tới phương hướng hoạt động của Hội thừa sai Paris sau này. Cha đẻ tinh thần của Hội thừa sai Paris là Alexandre de Rohodes. Ông là người truyền đạo thành công nhất ở Việt Nam.
Có thể nói, sự ra đời của Hội thừa sai cho phép ta nhận định rằng đây là một tổ chức truyền giáo do nha nước Pháp đứng ra tổ chức, bảo trợ. Hội này có nhiệm vụ thông qua và kết hợp với truyền giáo để hỗ trợ cho công cuộc thực dân của Pháp ở địa bàn hoạt động của hội.
Mối quan hệ giữa Hội thừa sai Paris với Nhà nước Pháp – mối quan hệ bất diệt giống như mối quan hệ giữa “cá” với “nước”.
Để trả lời cho câu hỏi “ Công giáo, cụ thể là Hội thừa sai Paris có liên quan đến cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp hay không?” Chúng ta cùng tìm hiểm mối quan hệ giữa Hội thừa sai Paris với Nhà nước Pháp sẽ phần nào hé lộ được câu trả lời.
Về bản chất thì bất kỳ một tôn giáo nào cũng tốt cả, tôn giáo là cái thiêng liêng, là nơi để con người gửi gắm niềm tin làm cho họ thấy cuộc sống tươi đẹp hơn. Nhưng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp thì tôn giáo, cụ thể là Công giáo đã đi sai hướng, sai nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của nó. Các giáo sĩ của Hội thừa sai Paris đã câu kết chặt chẽ, thậm chí đóng vai trò là kẻ chủ mưu, là đầu tàu dẫn đường cho Nhà nước Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, mối quan hệ đó là mối quan hệ “cá” với “ nước”: Mọi hoạt động của “cá” làm cho môi trường “nước” trở nên linh hoạt, sinh động hơn, ngược lại nước chính là môi trường duy nhất để cá phát huy hiệu quả của mọi hoạt động.
Trước hết, ai cũng thấy sự phát triển song song, trong lịch sử thuộc địa ở Châu Âu, giữa hành động thuộc địa và hành động truyền giáo. Ở bất cứ đâu trong thế giới Á Phi, sự truyền giáo đều được phát triển nhờ xâm chiếm thuộc địa, chiếm đóng quân sự, cắt nhượng lãnh thổ, trấn áp chính trị. “Giáo hội Thiên Chúa công nhận rành mạch chính nguyên tắc của việc xâm chiếm thuộc địa. Xâm chiếm thuộc địa là một “công trình giáo dục về kinh tế, xã hội, chính trị” , là “thực hiện chức năng đem lại văn minh do luật thiên nhiên ban cho các quốc gia tự do và có ý thức trách nhiệm”. Hồng y Verdirer nói rõ: xâm chiếm thuộc địa “nằm trong chương trình của Thượng Đế, như một hành động bác ái tập thể mà trong một thời điểm nào đó, một dân tộc thượng đẳng phải làm đối với các giống dân xấu số như một bổn phận phát sinh từ chính văn hóa thượng đẳng của dân tộc đó”. Nói một cách khác, các nhà đạo đức Thiên Chúa giáo tìm cách biện minh cho một quyền thuộc địa ngay trong cả thời gian mà việc xâm chiếm thuộc địa bị chỉ trích toàn bộ” [Cao Huy Thuần (2003); tr. 9].
Từ đó, dựa vào nhau là đặc điểm thứ hai: nếu sự truyền giáo dựa vào đô hộ của Âu Châu thì, ngược lại, sự đô hộ này, để được vững chắc, cũng phải tìm hậu thuẫn về lý thuyết cũng như về thực hành nơi các thừa sai và nơi chính tôn giáo mới.
+ Trên lý thuyết, tôn giáo mới tạo tính chính đáng cho hành động thuộc địa. Từ thế kỷ XV, giáo hoàng đã đặt ra nghĩa vụ cho các nước Thiên Chúa giáo phải chinh phục để cải đạo. Trong giáo chỉ của Bồ Đào Nha do giáo hoàng Alexandre VI ban hành ngày 4/5/1493 thì đất đai là thuộc về Chúa và đại diện của Chúa có quyền sử dụng tất cả những đất đai nào không thuộc tín đồ của mình, bởi vì những kẻ dị giáo và phản giáo không có một quyền chiếm hữu chính đáng nào trên bất cữ mảnh đất nào. Do đó, việc ban cấp đất đai do những kẻ đó chiếm hữu mặc nhiên bao hàm nghĩa vụ làm họ thần phục, làm họ cải đạ, tự nguyện hay ép buộc, và như vậy là vì phúc lợi tối cao của họ. Và trong Hiến chương mà nữ hoàng Elisabeth nước Anh ban hành năm 1660 cho một công ty thuộc địa buộc công ty này phải “tôn trọng những bổn phận cao hơn là nghĩa vụ thương mại”: Bổn phận cải giáo”[Cao Huy Thuần (2003); tr. 10].
Đến giai đoạn bành trướng thuộc địa vào thế kỷ XIX tách rời chính trị và tôn giáo trên lý thuyết. Nguyên nhân chủ yếu là kinh tế - thị trường làm cho kỹ nghệ đang mở mang – hoặc chính trị: không để cho một nước Âu châu khá nhanh chân chiếm trước. Tuy vậy, nước nào cũng có nhu cầu tìm cho ra một lý do để biện minh và tạo tính minh bạch cho hành động thuộc địa. Và bởi vì văn hóa Châu Âu là Thiên Chúa Giao, lý thuyết đó chỉ có thể lấy hứng từ đó mà thôi. “Họ bảo: chinh phục các nước xa xôi là để mang ánh sáng của đạo Chúa, mang văn minh Thiên Chúa đến cho các giống dân sống trong bóng tối của những tín ngưỡng man di” [Cao Huy Thuần (2003); tr. 10].
+ Về thực tiễn, đạo Chúa, theo các lý thuyết gia Thiên Chúa và các viên chức thuộc địa cao cấp, tạo sự gần gũi giữa các dân tộc bản xứ và các nước Âu châu: đó là dây liên kết giữa các xã hội bản xứ và xã hội Tây phương. Giám mục Guébriant làm sáng tỏ điểm này: “Khi môt người bản xứ thuộc bất cứ chủng tộc gì, vàng, nâu hoặc đen, cải thành đạo Chúa thì dù cho người đó đã nghĩ sai như thế nào, đã có thành kiến gì, đã sợ hãi gì, đã ghét bỏ gì, chắc chắn trong đầu người đó không còn một trở ngại gì nữa để gần gũi, hợp tác, hòa lẫn với những người theo đạo Chúa trong những chủng tộc khác, nhất là với người da trắng và sẽ hiểu sai họ tận đáy lòng, nếu đừng có chuyện gì xảy ra khiến người đó chướng mắt, thất vọng. Làm gần gũi trí óc và tình cảm là kết quả của việc cải giáo, và cải giáo là tận cùng của công sức thừa sai. Công việc của dân tộc có thuộc địa, đứng về mặt chính đáng mà xét, sẽ được vô cùng dễ dãi. Công việc đó dễ dãi, dù cho số dân đã được cải đạo hãy còn rất ít, bởi vì số lượng ít ỏi không phải là cản trở không thể vượt qua đối với vai trò làm gạch nối.trong cuốn “Về việc khai thác thuộc địa đối với những dân tộc tiên tiến” , được xem như tứ thư ngũ kinh của thuộc địa gia: “Nếu nước Pháp phạm một sai lầm khi khai chiến với Hồi giáo thì nước Pháp cũng sẽ không biết phòng xa gì hơn nếu không tìm cách cải đạo cho các dân tộc trong tất cả các nước đang chiếm đóng” [Cao Huy Thuần (2003); tr. 13].
Thứ ba, vẫn trên thực tiễn, đạo Chúa là phương tiện hiệu quả nhất để đồng hóa những dân tộc bị trị. Đồng hóa là chính sách cổ truyền của Pháp, nói chung là chính sách cổ truyền, thân thuộc, của các nước Latinh. Toàn quyền Pasquier giải thích: Quả thật người Pháp dễ dàng trong việc tiếp xúc với người bản xứ, đến với người đó, vui vẻ với người đó. Sự dễ dàng đó có gốc rẽ từ sức mạnh đồng hóa, hoặc bẩm sinh, hoặc do lý giải, khiến người Pháp tự mình đến gần người bản xứ, không phải để bắt gặp hay hiểu biết tư tưởng của người đó, mà để áp đặt tư tưởng của mình trên người đó. Lý tưởng đồng hóa đó đã ngự trị lâu đời trên lịch sử, trên đời sống chính trị của nước Pháp. Theo lời của giám mục Bruno de Soluges, là khuynh hướng tự nhiên của một nhà giáo dục nhân từ, tin chắc nơi phương pháp tuyệt diệu đã đào tạo nên mình, muốn áp dụng cho học trò của mình để họ cũng thành ra chính mình. Bởi vậy, dù cho đồng hóa là chính sách cai trị thuộc địa, thật bất công nếu người ta không xem đó như cũng có một giá trị tâm linh. [Cao Huy Thuần (2003); tr. 15].
Thứ tư, các ý tưởng của các giáo sĩ thừa sai có ảnh hưởng đến chính sách thuộc địa của thực dân Pháp. Bằng sự tuyên truyền khéo léo và mạnh mẽ, các giáo sĩ thừa sai đã làm cho dư luận ở Pháp cũng như ở thuộc địa tranh chấp nhận rộng rãi rằng:
+ Bắc kỳ và Trung kỳ là đất đai của hai giống dân rất khác nhau, thù ghét nhau, và dân Bắc kỳ thích sự đô hộ của ngoại bang hơn là của triều đình Huế.
+ Nho sĩ và quan lại là những kẻ thù không đội trời chung của Pháp; quan lại là một loại quí tộc khác biệt với dân chúng và bị dân chúng ghét, đến nỗi dân chúng sẵn sàng phục vụ cho bất cứ ai đến dẹp bỏ giúp họ những quan lại đó.
+ Vua An Nam có uy quyền độc tôn, vì thế phải cùng với ông ta mà cai trị, và còn phải dùng ông ta để hủy diệt các quan lại.
+ Triều đình Huế không đứng ngoài tình trạng rối loạn ở Bắc kỳ, vì thế phải nắm chắc họ trong tay để ngăn cản không cho họ điều khiển từ xa các hoạt động chống Pháp.
Như vậy, chính phủ thuộc địa bị định hướng ngay từ đầu, rồi bị giữ mãi như vậy một cách có ý thức hoặc không – bởi ảnh hưởng của Gia Tô giáo trên con đường trước tiên là đồng hóa, rồi sau đó là thống trị.
Các hoạt động của các giáo sĩ Thừa sai –đòn bẩy thúc đẩy cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
Vào những năm trước khi Pegneau de Béhaine đến Việt Nam, các giáo sĩ Hội thừa sai Paris đã đống góp tích cực vào việc môi giới cho thương nhân Pháp và cung cấp cho âm mưu thực dân của Pháp nhiều thông tin quan trọng. Đó là những việc làm của Đại diện Tông tòa Lambert, Pallu và các giáo sĩ Thứa sai Bourges, Deydier
De Lamotte Lambert, sau khi nhận chức Đại diện Tông tòa, do sự phong toản của người Bồ nên không có phương tiện sang phương Đông, đã phải đi bộ và đến Thái Lan năm 1661; và năm 1669 đến Việt Nam trên một chiếc tàu buôn của Pháp cùng với giáo sĩ Bourges. Lambert cùng với thương nhân Pháp đã đưa tặng vật phẩm cho vua Lê ở Đàng Ngoài và được nhà vua cho phép họ được mua đất để mở cửa hàng. Sau đó, Lambert vào Đàng Trong hoạt động một thời gian rồi về Thái Lan. Từ đây, Lambert vẫn thường xuyên gửi thư và tặng phẩm cho chúa Nguyễn. Năm 1679, Lambert chết ở Thái Lan, để lại cuốn sách Monito ad misionnarios và nhiều tập hồi ký chứa đựng rất nhiều tài liệu quý giá cho thương nhân và thực dân Pháp về tình hình Việt Nam.
Pallu đến Thái Lan năm 1664. Năm 1674, ông định đi kinh lý các giáo phận ở Đàng Ngoài song không thành vì bị bão lớn phải dạt sang Philippines. Năm 1681, sau khi được cử giữ chức Giám mục tổng toàn Trung Quốc, Pallu đã cử hai giáo sĩ Gefrard và Lefebre đem tặng vật và thư của vua Louis XIV đến vua Lê ở Đàng Ngoài xin cho Công ty Ấn Độ của Pháp được phép lập thương điếm ở Bắc Kỳ và cho phép 2 giáo sĩ Bourges và Deydier được đến truyền đạo, cho phép dân chúng bản xứ được theo đạo và mong mỏi nhà vua cải giáo. Nhờ đó sau này 2 giáo sĩ này đã được phép vào truyền giáo ở Việt Nam. Từ Viễn Đông, Pallu thường xuyên viết thư về cho vua Louis XIV, Ban lãnh đạo công ty Đông Ấn và thủ tướng Colbert, cung cấp cho họ những tài liệu cụ thể về khả năng thương mại với Đàng Ngoài và thúc giục họ phải có hành động gấp.
Mối quan hệ mật thiết giữa các giáo sĩ Thừa sai Pháp với Công ty Đông Ấn xung quanh việc chiếm lĩnh thị trường Việt Nam đã dẫn tới một chương trình hành động quy mô lớn mà Pigeau de Béhaine là người thực thi.
Năm 1766, Pigeau de Béhaine cùng với 4 giáo sĩ Thừa sai khác được cử sang truyền giáo ở Đàng Trong. Pigeau de Béhaine đã có dịp nghiên cứu kỹ những kế hoạch xâm lược Đàng Trong của Công ty Đông Ấn và ông thấy rằng có thể thông qua việc truyền giáo, nhất là cải giáo được người có cương vị sẽ thừa kế vương quyền ở Việt Nam thì có thể chinh phục được nước này một cách êm thấm. Do đó, ông đã tìm cách bắt liên lạc với người trong dòng họ chúa Nguyễn và với sự nỗ lực của mình, cộng với sự giúp đỡ của giáo dân, Pigeau de Béhaine cứu được Nguyễn Ánh trong một trận bao vây của quân Tây sơn tại trấn Hà Tiên. Mối quan hệ gắn bó giữa Pigeau de Béhaine với Nguyễn Ánh bắt đầu từ đây.
Nguyện vọng của Pigeau de Béhaine là sự cải giáo của Nguyễn Ánh song song với việc cải giáo hàng loạt của dân chúng Việt Nam. Để thực hiện ý đồ đó, Pigeau de Béhaine đã yêu cầu Nguyễn Ánh tha cấm đạo; mặt khác, ông ta tuyên bố cho các con chiên được phép thờ cúng tổ tiên theo phong tục Việt Nam để đẩy mạnh việc cải giáo. Việc này không thành, vì Tòa Thánh La Mã phản đối kịch liệt.
Từ năm 1843 đến năm 1857, theo yêu cầu của các giáo sĩ, các tàu chiến Pháp đã 6 lần đến Cảng Đà Nẵng yêu sách nhà Nguyễn: đòi thả các giáo sĩ, đòi được quyền tự do truyền đạo và tự do buôn bán với một thái độ hết sức ngạo mạn và khiêu khích trắng trợn, gây nên sự căng thẳng cao độ giữa hai Nhà nước Pháp và Việt Nam.
Trong quá trình xâm lược và bình định Việt Nam, ở đâu thực dân Pháp cũng nhận được sự giúp đỡ tận tình của các giáo sĩ của Hội thừa sai Paris.
Khi quân Pháp kéo đến Gia Định, Giám mục Lefebre đã từ làng Tam Hội lén ra gặp Rigault de Genouilly để thông báo tường tận với hắn về sự bố phòng, quân số, vũ khí và mọi tình hình của thành Gia Định và hướng dẫn Pháp đánh thành. Ông huy động giáo dân tiếp tế cho quân Pháp, vận động giáo dân đi lính. Ví dụ “Lefebre cùng với các giáo sĩ ở Nam Kỳ cũng tích cực giúp đỡ Pháp đào tạo lớp thông dịch viên đầu tiên để phục vụ cho chính quyền Pháp mới được thành lập. Có giáo sĩ Pháp còn trực tiếp tham gia bộ máy chính quyền như Le Grand de la Lyraye đã làm Thanh tra dân vụ trong bộ máy chính quyền phôi thai của Pháp ở Nam Kỳ [Nguyễn Văn Kiệm (2003); tr. 95,96].
Trong quá trình truyền đạo, các giáo sĩ Hội thừa sai cùng với các linh mục bản xứ, các nữ tu, ngay cả trong thời kỳ cấm đạo khó khăn, vẫn không quên làm việc thiện, một công việc vừa có ý nghĩa tâm linh, vừa có ý nghĩa xã hội, đồng thời cũng qua đó, mối quan hệ giữa giáo và lương trở nên tốt đẹp hơn. Trong cuộc từ thiện này, các nữ tu, nhất là các nữ tu của Dòng Chị em Mến Thánh giá đã đóng vai trò hết sức quan trọng và có hiệu quả. Giáo hội Công giáo rất quan tâm đến số phận của các trẻ nhỏ ốm đau, bệnh tật, mồ côi, những người bệnh hiểm nghèo, bệnh hủi, bị gia đình xa lánh, cụ thể:
Năm 1877 đến năm 1902, chỉ riêng các nữ tu Mến Thánh giá ở nhà mụ Cái Mông (Nam Kỳ) đã rửa tội cho 8.535 trẻ nhỏ chết yểu. Những đứa trẻ sống sót được giao cho các gia đình Công giáo nhận làm con nuôi hoặc đưa vào trại cô nhi.
Năm 1864, ở Giáo phận Bắc Kỳ đã lập trại cô nhi và nhận nuôi 60 trẻ. Năm 1865, Bắc Kỳ bị dịch tả và nạn đói, cô nhi viện nhận ngày càng nhiều trẻ em hơn.
Từ năm 1884 trở đi, nhà thương hủi được thành lập ở nhiều giáo phận trong cả nước, do các nữ tu chăm sóc.
Song song với việc chăm sóc những người bị bệnh hiểm nghèo, nhà thờ Công Giáo còn quan tâm tới việc áp dụng thành tựu và kiến thức y học phương Tây để cứu giúp dân chúng.
Chính những việc làm từ thiện đã góp phần che