Dự án xây dựng nguồn nguyên liệu cá tra nhằm phục vụ cho hoạt động chế biến xuất khẩu

- Đồng Bằng Sông Cửu Long vốn đã có truyền thống nuôi cá tra từ rất lâu. Trước đây, cá tra được nuôi phổ biến trong các ao, hồ, bãi bồi và nuôi lồng, bè. Cá tra chủ yếu được nuôi trên các con sông lớn thuộc các tỉnh An Giang, Đồng Tháp. Và đến nay cá tra đã được nuôi ở hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước, và đã đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ nội địa và cũng như cung cấp nguồn nguyên liệu cá thương phẩm cho các nhà máy chế biến phục vụ cho việc xuất khẩu. - Cùng với sự thành công về năng suất chăn nuôi, ngành công nghiệp chế biến cá tra cũng đã có sự tiến bộ vượt bậc. Mặc dù diện tích nuôi ngày càng được mở rộng, năng suất, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu luôn tăng qua từng năm. Song bên cạnh đó, thì nghề nuôi cá tra tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa thật sự ổn định và bền vững, và vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ như: ô nhiễm môi trường, biến động về thị trường giá cả, chất lượng của cá. Bên cạnh đó, thì khủng hoảng kinh tế tài chính đã khiến cho các nhà nhập khẩu cá tra trên thế giới cũng rơi vào tình trạng khó khăn về năng lực tài chính. Và tất cả những điều này nó đã ảnh hưởng rất lớn đến việc xuất khẩu sản phẩm cá tra Việt Nam. - Hiện nay, mặc dù giá cá tra trên thị trường đã dần dần được khôi phục, nhưng vấn đề đặt ra ở đây, đó là sự thiếu nguồn nguyên liệu cá tra để cung ứng cho nhà máy chế biến xuất khẩu. Thực tế hiện tại , hầu hết các công ty chế biến chỉ thu mua được của người dân đạt khoảng từ 60% - 70% cá nguyên liệu, đó là chưa kể đến đã có nhiều hộ nuôi phải treo ao, không thả nuôi liên tục Do thiếu vốn hoặc do giá cả không đủ bù đắp chi phí nuôi .Và điều đó, đã gây ra tình trạng thiếu nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy. Chính vì vậy, vấn đề cần đặt ra đó là cần phải có một vùng nguyên liệu ổn định và đảm bảo tốt về chất lượng nhằm phục vụ cho hoạt động chế biến xuất khẩu cá tra , mặt hàng từng được xem là biểu tượng của người dân đặc biệt là các tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long. Chúng em chọn đề tài nghiên cứu: “Dự Án Xây Dựng Nguồn Nguyên liệu Cá Tra Nhằm Phục Vụ Cho Hoạt Động Chế Biến Xuất Khẩu” vì tính cấp bách của nó. Và nhận thấy đây cũng là một trong những mối lo ngại của các nhà máy chế biến xuất khẩu. Do đó, đề tài này như tìm ra một vùng nguyên liệu ổn định và đảm bảo tốt về chất lượng nhằm phục vụ cho hoạt động chế biến xuất khẩu.

doc32 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1954 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Dự án xây dựng nguồn nguyên liệu cá tra nhằm phục vụ cho hoạt động chế biến xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU - Đồng Bằng Sông Cửu Long vốn đã có truyền thống nuôi cá tra từ rất lâu. Trước đây, cá tra được nuôi phổ biến trong các ao, hồ, bãi bồi và nuôi lồng, bè. Cá tra chủ yếu được nuôi trên các con sông lớn thuộc các tỉnh An Giang, Đồng Tháp... Và đến nay cá tra đã được nuôi ở hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước, và đã đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ nội địa và cũng như cung cấp nguồn nguyên liệu cá thương phẩm cho các nhà máy chế biến phục vụ cho việc xuất khẩu. - Cùng với sự thành công về năng suất chăn nuôi, ngành công nghiệp chế biến cá tra cũng đã có sự tiến bộ vượt bậc. Mặc dù diện tích nuôi ngày càng được mở rộng, năng suất, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu luôn tăng qua từng năm. Song bên cạnh đó, thì nghề nuôi cá tra tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa thật sự ổn định và bền vững, và vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ như: ô nhiễm môi trường, biến động về thị trường giá cả, chất lượng của cá.... Bên cạnh đó, thì khủng hoảng kinh tế tài chính đã khiến cho các nhà nhập khẩu cá tra trên thế giới cũng rơi vào tình trạng khó khăn về năng lực tài chính. Và tất cả những điều này nó đã ảnh hưởng rất lớn đến việc xuất khẩu sản phẩm cá tra Việt Nam. - Hiện nay, mặc dù giá cá tra trên thị trường đã dần dần được khôi phục, nhưng vấn đề đặt ra ở đây, đó là sự thiếu nguồn nguyên liệu cá tra để cung ứng cho nhà máy chế biến xuất khẩu. Thực tế hiện tại , hầu hết các công ty chế biến chỉ thu mua được của người dân đạt khoảng từ 60% - 70% cá nguyên liệu, đó là chưa kể đến đã có nhiều hộ nuôi phải treo ao, không thả nuôi liên tục…Do thiếu vốn hoặc do giá cả không đủ bù đắp chi phí nuôi .Và điều đó, đã gây ra tình trạng thiếu nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy. Chính vì vậy, vấn đề cần đặt ra đó là cần phải có một vùng nguyên liệu ổn định và đảm bảo tốt về chất lượng nhằm phục vụ cho hoạt động chế biến xuất khẩu cá tra , mặt hàng từng được xem là biểu tượng của người dân đặc biệt là các tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long. Chúng em chọn đề tài nghiên cứu: “Dự Án Xây Dựng Nguồn Nguyên liệu Cá Tra Nhằm Phục Vụ Cho Hoạt Động Chế Biến Xuất Khẩu” vì tính cấp bách của nó. Và nhận thấy đây cũng là một trong những mối lo ngại của các nhà máy chế biến xuất khẩu. Do đó, đề tài này như tìm ra một vùng nguyên liệu ổn định và đảm bảo tốt về chất lượng nhằm phục vụ cho hoạt động chế biến xuất khẩu. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI - Làm mô hình mẫu cho các nhà máy và các hộ nuôi cá thể. - Mục tiêu kinh tế: Đảm bảo nguồn nguyên liệu phục vụ cho việc xuất khẩu. - Mục tiêu xã hội: Giải quyết việc làm cho lao động ở địa phương. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI: Đối Tượng Nghiên Cứu: Nghiên cứu về quy trình thực hiện dự án cũng như tầm quan trọng về vấn đề môi trường trong quá trình nuôi. Phạm Vi Nghiên Cứu: Đặc điểm sinh thái con cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long mà điển hình là Tỉnh An Giang. Kết Cấu Đề Tài: Chương 1: Cơ Sở Lý Luận Chương 2: Thực Trạng hiện tại Chương 3: Một Số Giải Pháp Chương 5: Kết luận Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN I. Khái Quát Về Đồng Bằng Sông Cửu Long: - Đồng bằng sông Cửu Long nằm tiếp giáp với TP Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Đông (khu vực kinh tế năng động nhất Việt Nam), biên giới với Campuchia, và được bao bọc bởi biển Đông, biển Tây - vịnh Thái Lan, nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng, giữa Nam á, Đông á, Châu Úc và rất gần các nước Đông Nam á như Thái Lan, Singapore, Malaixia, Philippin, Indonesia... - Đồng Bằng Sông Cửu Long có hệ thống sông ngòi chằng chịt với hai dòng sông Tiền và sông Hậu là điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản vì dễ dàng trong hoạt động lấy nước, và cộng với kỹ thuật nuôi không quá khó nên nghề nuôi cá tra ở khu vực này phát triển mạnh nhất là trong vài năm trở lại đây và đặc biệt là ở hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Ở đây có một nhiệt độ tương đối ổn định trong toàn vùng, trung bình là 280C.  Một năm chia làm hai mùa: mùa mưa và mùa nắng. Những đặc điểm khí hậu trên đã tạo ra ở Đồng bằng sông Cửu Long những lợi thế riêng mà các nơi khác khó có được. Và đây cũng là nơi ít xảy ra thiên tai do khí hậu đặc biệt là bão. - Đồng bằng sông Cửu Long lấy nước ngọt từ sông Mêkông và nước mưa. Cả hai nguồn này đều đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt. Chính lượng nước và khối lượng phù sa đó trong quá trình bồi bổ lâu dài đã tạo nên Đồng bằng châu thổ phì nhiêu ngày nay. - Năm 2005, toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 103 nhà máy chế biến đông lạnh với tổng công suất thiết kế đạt trên 638 ngàn tấn, trong đó có 36 nhà máy có chế biến cá tra, tổng công suất thiết kế đạt gần 273 ngàn tấn/năm. Đến nay, số lượng nhà máy chế biến cá tra, cá basa đã tăng lên thành 84 nhà máy với tổng công suất đạt gần 1 triệu tấn/năm. Và đây cũng là một tính hiệu tốt cho ngành nuôi trồng thủy sản trong toàn và phát triển nền kinh tế của cả nước. II. Những Đặc Tính Của Con Cá Tra: 1. Giá Trị Dinh Dưỡng: - Cá tra có tên tiếng Anh là Sutchi catfish và tên khoa học là Pangasius hypophthalmus là một trong những đối tượng nuôi trồng thủy sản đang được phát triển với tốc độ nhanh tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Và là một trong những loài cá có giá trị xuất khẩu cao. Cá tra của Việt Nam được nhiều thị trường ưa chuộng vì màu sắc cơ thịt trắng, thịt cá thơm ngon hơn so với các loài cá da trơn khá. - Trong dinh dưỡng học, người ta đã biết cá là một món ăn quý có nhiều protein, nhiều chất khoáng quan trọng và có gần đủ các loại vitamin, đặc biệt nhiều vitamin A và D trong gan cá và một số vitamin nhóm B. Hơn thế nữa, cá Tta là loài có giá trị dinh dưỡng cao vì thành phần dinh dưỡng chứa nhiều chất đạm, ít béo, nhiều EPA và DHA, ít cholesterol. - Lượng protein trong cá tra vào khoảng 23% đến 28%, tương đối cao hơn các loài cá nước ngọt khác. Các protein của cá đều dễ tiêu hóa và dễ hấp thu hơn thịt. Quan trọng hơn nữa là thành phần các protein trong cá tra vừa có chứa đầy đủ các acid amin cần thiết cho cơ thể lại vừa có tỷ lệ các acid amin thiết yếu (EAA) rất cân bằng và phù hợp với nhu cầu EAA của con người. - Về chất béo, hàm lượng chất béo trong cá tra ít hơn so với thịt nhưng chất lượng mỡ cá lại tốt hơn. Các acid béo chưa no hoạt tính cao chiếm từ 50% - 70% trong tổng số lipid bao gồm oleic, linoleic, linolenic... Các acid béo này là vật chất quan trọng hỗ trợ cho nhiều cơ quan trong cơ thể như hệ thần kinh, hệ tuần hoàn. Nhiều nghiên cứu khoa học đã phát hiện rằng, trong chất béo chưa bão hòa của cá tra có chứa nhiều acid béo Omega 3 (EPA và DHA). Đây là các acid béo quan trọng mà cơ thể chúng ta không thể tự tổng hợp được nên bắt buộc phải được cung cấp từ thức ăn. Chất DHA giữ vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng của tế bào não và hệ thần kinh, có ảnh hưởng tới năng lực tìm tòi, phán đoán, tổng hợp của não. DHA được xem là không thể thiếu trong giai đoạn trẻ em đang phát triển, thanh niên hoặc những người lao động trí óc thường xuyên. Nếu cơ thể thiếu DHA, bộ não sẽ trì trệ, trí nhớ giảm sút, kém thông minh. Chất EPA cũng có nhiều trong acid béo chưa bão hòa của cá và có tác dụng phòng chống bệnh xơ vữa động mạch và nhồi máu cơ tim. Như vậy, EPA rất cần thiết cho người cao tuổi cũng như người tiêu dùng trong độ tuổi lao động. Ngày nay, các nhà khoa học đã cho biết thêm hàm lượng Cholesterol trong cá tra cực kỳ thấp, chỉ chiếm khoảng 0.02% thành phần thịt cá. Thành phần dinh dưỡng của cá Tra thành phẩm: Thành phần dinh dưỡng trên 100g thành phẩm ăn được Tổng năng lượng cung cấp (calori) Chất đạm (g) Tổng lượng chất béo (g) Chất béo chưa bão hòa (có DHA, EPA) (g) Cholesterol (%) Natri (mg) 124.52 23.42 3.42 1.78 0.025 70.6 Một Số Sản Phẩm Đặc Trưng Chế Biến Từ Cá Tra . 2. Sản Xuất Bột Canxi Từ Xương Cá Tra: - Xương cá được xem như một nguồn tiềm năng cung cấp canxi, một nguyên tố rất cần thiết cho sức khỏe của con người. Thông thường canxi được thu nhận thông qua ăn uống thực phẩm một cách tự nhiên. Tuy nhiên, do nhiều người không có điều kiện ăn uống thực phẩm giàu canxi tự nhiên nên cơ thể thiếu canxi trầm trọng, có nguy cơ bị loãng xương, nên cần được bổ sung canxi dưới dạng viên thuốc, dịch hoặc sử dụng thực phẩm có bổ sung canxi.  - Các nghiên cứu cho thấy, việc bổ sung canxi thông qua thực phẩm có lợi hơn là thông qua uống viên canxi, vì hấp thụ tốt hơn và tránh việc lắng đọng canxi tạo sỏi thận. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm các nguồn canxi bổ sung vào chế độ ăn uống là vấn đề rất cần thiết. Những tài liệu khoa học cho thấy những con cá nhỏ là nguồn thực phẩm dinh dưỡng giàu canxi và cũng đã có nhiều nghiên cứu về hấp thụ canxi từ xương cá vào cơ thể. Tuy nhiên, cũng rất ít tài liệu nói về lợi ích của xương những con cá lớn đối với sức khỏe con người. - Xương của những con cá lớn cũng là một nguyên liệu rất giàu canxi. Để có thể bổ sung xương cá vào một số loại thực phẩm để tăng cường canxi thì cần phải làm mềm cấu trúc của nó. Một số phương pháp có thể làm mềm xương như: sử dụng nước nóng, đun nóng với dung dịch acid acetic, NaOH hay dùng enzyme để thủy phân xương cá.  - Chất lượng sản phẩm cuối cùng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu hóa sinh và cảm quan. Kết quả khảo sát phụ phế liệu cá tra cho thấy trong các bộ phận phụ phẩm, xương cá có hàm lượng tro khá cao với thành phần canxi chiếm tỷ lệ cao nhất so với các bộ phận khác. - Tuy nhiên, để sản phẩm có thể được ứng dụng trong lĩnh vực thực phẩm, đặc biệt dùng làm chất bổ sung canxi cho thực phẩm con người, thì cần có nhiều nghiên cứu sâu hơn về quy trình tinh chế và sản xuất bột xương, đồng thời giá trị sinh học canxi của bột xương cũng cần được nghiên cứu nhằm xác định rõ giá trị, chất lượng của sản phẩm, từ đó xác định giới hạn khả năng ứng dụng của sản phẩm thu được. 3. Sản Xuất Xăng BioDiesel Từ Mỡ Cá Tra: - Mỗi năm Đồng bằng sông Cửu Long thải ra hơn 30.000 tấn mỡ cá tra. Tuy mỡ cá được tận dụng bán cho cơ sở sản xuất mỡ bôi trơn, thức ăn chăn nuôi nhưng đầu ra, giá cả còn khá bấp bênh nên lắm khi dư thừa gây ô nhiễm. Và ngày nay, người ta đã nghiên cứu và sản xuất thành công dầu BioDiesel từ mỡ cá, là một loại dầu sạch và cá giá trị kinh tế khá cao. Chương 2: THỰC TRẠNG I. Những Thuận Lợi Và Khó Khăn Khi Nuôi Cá Tra 1. Thuận Lợi: - Chất lượng và lưu lượng nước của sông Tiền và sông Hậu. + Lưu lượng nước: Vào mùa mưa lũ, lưu lượng nước dao động từ 18.8000 m3/giây - 48.700 m3/giây cao gấp 9 - 23 lần so với lưu lượng vào mùa khô.  + Nhiệt độ: Biến thiên không nhiều, cao nhất là 310C vào tháng 5 và tháng 10, thấp nhất 260C vào tháng giêng. Biên độ chênh lệch trong ngày khoảng 1.50C, nhiệt độ trên tầng mặt cao hơn dưới đáy 2 - 30C. + Độ trong và pH: Trong mùa khô, độ trong của nước từ 40 - 60 cm và pH khoảng 7.5. Mùa mưa, độ trong chỉ 8 - 10cm và pH nước sông khá ổn định là đặc điểm rất có lợi cho đời sống của thủy sinh vật và cá.  + Các chất khí hòa tan: ở sông Tiền và sông Hậu nước tương đối thoáng sạch, dưỡng khí đầy đủ (4.3 - 9.7 mg/lít), hàm lượng khí cacbonic thấp (1.7 - 5.2mg/lít) nghĩa là nằm dưới giới hạn có hại đối với cá và sinh vật dưới nước. Ngoài ra không có các khí độc trong nước sông.  - Nguồn con giống phong phú. - Kinh nghiệm nuôi được tích lũy qua nhiều năm của nhân dân địa phương.  - Cá tra cũng đã có được thị trường xuất khẩu với nhu cầu số lượng lớn.  2. Khó Khăn: a. Môi Trường Nước: - Như chúng ta đã biết, trong nuôi trồng thủy sản thì môi trường nước có vai trò quan trọng, nhưng giai đoạn hiện nay, môi trường nước đang là một vấn đề cấp thiết và nan giải. Nghề nuôi cá tra đã có từ rất lâu, từ khi thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp, dần dần nông dân chuyển những vùng đất trồng lúa, màu không có hiệu quả sang đào ao nuôi cá, đặc biệt là nuôi cá tra. Ngoài việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn do người dân nuôi tự phát khi giá cá tra tăng đột biến thì người dân đổ xô nhau nuôi cá làm diện tích tăng ồ ạt nên làm ảnh hưởng đến môi trường nghiêm trọng do nước thải cá tra không được xử lý và bùn ở đáy ao làm ảnh hưởng đến nguồn nước và sinh hoạt người dân. Với tình hình hiện nay, do tốc độ phát triển quá nóng, phá vỡ quy hoạch, diện tích nuôi ngày càng tăng thì môi trường nước càng xấu, và tình hình ô nhiễm môi trường ở những vùng nuôi đã đến mức báo động. + Ô nhiễm nguồn nước là do các hộ nuôi chủ yếu thải chất thải từ ao nuôi đều được đưa thẳng ra sông, kênh, rạch. Thực tế cho thấy, nuôi cá trong ao, hầm, chỉ có 17% thức ăn được cá hấp thụ, phần còn lại khỏang 83% hòa lẫn, lắng đọng trong môi trường nước trở thành chất hữu cơ bị phân hủy. Đây là nguồn chất thải cực kỳ nguy hiểm, và là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự biến đổi nguồn nước trên sông, rạch. Theo các nhà chuyên môn cho biết, thì cứ 1kg cá tra thịt sẽ thải ra môi trường nước 3kg chất thải. Vậy với sản lượng hằng năm là nuôi khá phổ biến như hiện nay thì lượng chất thải phải thải ra môi trường một con số rất lớn. Nếu như, không có biện pháp nào xử lý và ngăn chặn kịp thời thì đến một lúc nào đó nguồn lợi từ cá tra dần dần mất đi và nuôi thủy sản sẽ không còn nữa. Theo ông Nguyễn Văn Thanh, giám đốc sở thủy sản An Giang cho biết : “Đa số những hộ nuôi cá tra hầm đều không xây dựng hệ thống ao lắng để xử lý nước trước khi cho vào ao nuôi và xử lý nước thải trước khi thả ra sông rạch, đó là nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước”. - Đây chính là những nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước, khi mà lượng chất thải vượt quá sức chứa của nguồn nước ở đây sẽ dẫn đến phá vỡ cân bằng sinh thái. Lúc đó, không chỉ thiệt hại cho chính người nuôi cá mà tác động xấu đến nguồn nước ngọt trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng cho sản xuất nông nghiệp, nguồn nước sinh hoạt cho cư dân. Tác Động Của Nguồn Nước Nuôi Cá Tra: Tác Động Tiêu Cực: - Nguồn tài nguyên nước ở những khu vực nuôi đang biến đổi cả về trạng thái lẫn chất lượng… không những đe dọa đến phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội mà còn tác động đến sức khỏe của con người và các hệ sinh thái gần khu vực nuôi. - Môi trường nước bị ô nhiễm trầm trọng ảnh hưởng đến người dân đặc biệt là người nghèo do hầu hết các ao nuôi không có hệ thống xử lý nước thải, phần lớn đều đổ ra kênh rạch ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân nơi đây. Mặc khác, ô nhiễm nguồn nước còn tác động trở lại đối với những người nuôi cá do những hộ nuôi trên nguồn nước thải nước trong ao nuôi cá tra mà không xử lý, hộ dưới nguồn nước bơm vào ao. Vì vậy, khi một ao nuôi bị dịch bệnh thì các ao khác kéo theo cũng bị bệnh làm cho cá chết hàng loạt gây thiệt hại rất lớn cho người nuôi. Tác Động Tích Cực: - Nguồn nước nuôi cá tra có tác động rất lớn đến người dân, nếu không được xử lý triệt để thì nguồn nước này sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và sinh hoạt cho người dân, ô nhiễm quá nặng thì không nuôi thủy sản được. Tuy nhiên, nó cũng tác động mạnh mẽ đến những người dân nghèo khi họ biết tận dụng trong sản xuất nông nghiệp để làm giảm chi phí, tăng năng suất sẽ giúp họ thoát khỏi cảnh đói nghèo và giảm ô nhiễm môi trường như là mô hình nuôi trứng nước, thải nước vào ruộng sẽ làm tăng năng suất lúa… b. Lãi suất Ngân Hàng: - Từ đầu năm 2009 đến nay, giá thức ăn thủy sản, xăng dầu... đã tăng mạnh. Đặc biệt lãi suất tiền vay từ các Ngân hàng ở mức 1.1%/tháng trở xuống, giờ đã vọt lên ở mức từ 1.2 - 1.5% tháng trở lên. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng rất hạn chế cho nông dân vay vốn để nuôi cá tra. Trong khi đó, nuôi cá tra đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Nếu vay vốn ngân hàng không được, thì vay nóng ở bên ngoài có thể chịu lãi suất tới 30 - 40%/tháng, nên nhà nông rất khó phát triển cá tra. - Hiện nay, nông dân có cá tới lứa thu hoạch, trừ chi phí mỗi ký cá thu lợi nhuận từ 1.000 - 1.500 đồng. Tuy nhiên, sau khi thu hoạch cá, phần lớn nông dân đều chọn giải pháp “tạm thời treo ao” vì những lý do nêu trên. Theo Cục Nuôi trồng thủy sản Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, vào thời điểm cuối 12/2009, tổng diện tích nuôi cá tra tại các tỉnh, thành Đồng Bằng Sông Cửu Long là hơn 6.000ha. Diện tích đã thu hoạch trong năm 2009 là 4.722ha, với sản lượng đạt hơn 1 triệu tấn. Còn trong năm 2010, diện tích nuôi cá hiện thả nuôi mới chỉ hơn 2.000ha. Lượng cá tra tiêu thụ từ đầu năm 2010 đến nay đạt trên 450.000 tấn. Với sản lượng và diện tích nuôi cá tra sụt giảm thê thảm như hiện nay, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các nhà máy thủy sản và công ăn việc làm của người lao động trong lĩnh vực này. Do vậy, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước về vốn và những chính sách liên kết giữa doanh nghiệp với người nuôi chặt chẽ hơn, có như vậy thì con cá tra một trong những nguồn lợi thủy sản thu ngoại tệ của quốc gia mới phát huy được thế mạnh. c. Giá Cả: - Vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đến nay, cá tra đã vươn lên dẫn đầu kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước. Nhưng bên cạnh đó, có một nghịch lý đó là hiện nay người nuôi cá tra đang trong cảnh rất khó khăn và hưởng lợi rất ít, đầu ra sản phẩm vẫn bấp bênh, chưa đảm bảo phát triển ổn định…Trong những năm gần đây giá cá tra liên tục ở mức thấp, trong khi các yếu tố đầu vào như: con giống, chi phí thuê ao, nhân công, thuốc thú y và đặc biệt là giá thức ăn tăng cao làm cho nhiều hộ nuôi bị lỗ. Cho nên diện tích nuôi cá tra xuất khẩu cả nước phát triển chậm so với dự kiến. Phần lớn diện tích được thả nuôi với mật độ thưa, sản lượng thấp do thiếu vốn sản xuất. Đa phần người nuôi đang mắc nợ ngân hàng, không còn tài sản thế chấp nên không thể tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ lãi suất của Chính phủ. - Khảo sát mới nhất về thực trạng người nuôi cá tra tại Tỉnh An Giang cho thấy: Từ 70 - 80% người nuôi cá xuất khẩu đang chịu lỗ. Toàn Tỉnh hiện có 2.854 hộ vay nuôi cá tra với tổng số vốn gần 1.500 tỷ đồng. Trong số này có 152 hộ nợ quá hạn với số vốn 52 tỷ đồng. Hầu hết người nuôi đều không còn tài sản thế chấp để các ngân hàng hỗ trợ vay các khoản vay mới. - Mặc dù Hiện nay, nhu cầu sản phẩm cá tra được khẳng định sẽ tăng mạnh trong thời gian tới nhưng hiện tại giá cá tra nguyên liệu tại Đồng bằng sông Cửu Long vẫn ở mức thấp. “Với mức giá này thì người nuôi vẫn còn rất khó khăn, với giá thành cao và giá bán thấp như hiện nay, người nuôi không thể nào có lãi. Trong khi đó, ngân hàng nghe nói vay nuôi cá là rất sợ vì ngoài điều kiện thế chấp thì nguy cơ rủi ro cũng rất cao”. Có thông tin cho rằng, sở dĩ giá hiện nay nhiều doanh nghiệp tiêu thụ cá tra nguyên liệu cầm chừng, giá thấp là do tập trung giải phóng lượng hàng tồn trữ trước đó. Mặt khác, qua các phương thức mà nhiều doanh nghiệp tự xây dựng vùng nguyên liệu riêng đáp ứng vài chục phần trăm nhu cầu sản xuất. Khi có nhu cầu thì việc ưu tiên tiêu thụ cho sân nhà bao giờ cũng được tính đến. II. Thực Trạng Xuất Khẩu Cá Tra Nước Ta Hiện Nay: - Theo tin từ Hiệp Hội thuỷ sản, xuất khẩu cá tra của cả nước 8 tháng đầu năm 2009 đã giảm 7.3% so với cùng kỳ ngoái, chiếm trên 1/4 mức sụt giảm xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. Riêng trong tháng 8, xuất khẩu cá tra giảm trên 20% cả về khối lượng và giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó,  thị trường EU đã sụt giảm mạnh về khối lượng và giá trị nhập khẩu mặt hàng này với tỉ lệ tương ứng là 14% và 19%. Thị trường Ai Cập, vốn được coi là thị trường tiềm năng ở Trung Đông, nhưng cũng giảm trên 40% việc nhập khẩu cá tra Việt Nam. - Năm 2009, xuất khẩu cá tra khá lao đao bởi những rào cản từ các nước nhập khẩu chính, và trong khi đó thì nguồn cung cấp nguyên liệu trong nước cũng không ổn định. Việc Mỹ dự định đưa cá tra của Việt Nam vào danh mục cá da trơn theo “Luật Nông nghiệp 2008” là một điều bất lợi cho con cá tra vốn đã bị đánh bởi thuế chống bán phá giá. Bên cạnh đó, những chỉ trích của các phương tiện truyền thông một số nước Châu Âu, Trung Đông đã làm hạn chế xuất khẩu con cá này. Bên cạnh những biến động về thị trường, vấn đề về giá và nguồn cung nguyên liệu không ổn định cũng là một yếu tố tác động giảm xuất khẩu cá tra. Theo tin từ Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản An Giang cho biết, giá cá tra nguyên liệu thời gian gần đây tăng từ 15.000 – 17.000 đồng/kg. Tuy nhiên, theo phản ánh của nhiều người nuôi vẫn còn bị lỗ từ 800 - 1.000 đồng/ kg. Để d
Luận văn liên quan