Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cao su Việt Nam

Cây cao su là cây công nghiệp dài ngày,có khả năng thích ứng rộng,tính chống chịu với điều kiện bất lợi cao và mang giá trị kinh tế lớn do chất lỏng tiết ra từ cây hay còn goi là “mủ cao su” là nguyên liệu công nghiệp chính sản xuất ra cao su .Việt Nam và các nước thuộc khu vực Đông Nam Á có được lợi thế vô cúng lớn từ khí hậu,đất đai thuận lợi cho sự phát triển của cây cao su.Bởi vậy cây cao su đã trở thành nguồn lợi kinh tế lớn đặc biệt cho ngành và cho sự phát triển của đất nước. Nhìn nhận thấy tiềm năng phát triển lớn của cây cao su,Việt Nam đã chú trọng trồng trọt,khai thác chế biến cao su rộng rãi trên cả nước.Các sản phẩm cao su không chỉ nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước và đồng thời đóng góp một tỷ trọng lớn vào kim ngạch xuất khẩu của đất nước,có mặt ở hầu hết tất cả các thị trường trên thế giới. Tuy nhiên sản phẩm cao su của Việt Nam còn gặp nhiều trở ngại năng lực cạnh tranh còn yếu kém so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực như Thái Lan,Malayxia,Indonexia. cũng như năng lực cạnh tranh của ngành còn yếu kém so với các ngành kinh tế khác Do đó, làm sao phát huy hết nội lực, hết lợi thế để cao su Việt Nam có thể đứng vững và phát triển trên thị trường thế giới vẫn là một câu hỏi bất cập cần có lời giải đáp. Đề tài “Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cao su Việt Nam “ mà em chọn là một đóng góp nhỏ ý kiến của bản thân mong góp phần giải quyết câu hỏi đó.

doc56 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3061 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cao su Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu 1.Tính cấp thiết của đề tài. Cây cao su là cây công nghiệp dài ngày,có khả năng thích ứng rộng,tính chống chịu với điều kiện bất lợi cao và mang giá trị kinh tế lớn do chất lỏng tiết ra từ cây hay còn goi là “mủ cao su” là nguyên liệu công nghiệp chính sản xuất ra cao su .Việt Nam và các nước thuộc khu vực Đông Nam Á có được lợi thế vô cúng lớn từ khí hậu,đất đai thuận lợi cho sự phát triển của cây cao su.Bởi vậy cây cao su đã trở thành nguồn lợi kinh tế lớn đặc biệt cho ngành và cho sự phát triển của đất nước. Nhìn nhận thấy tiềm năng phát triển lớn của cây cao su,Việt Nam đã chú trọng trồng trọt,khai thác chế biến cao su rộng rãi trên cả nước.Các sản phẩm cao su không chỉ nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước và đồng thời đóng góp một tỷ trọng lớn vào kim ngạch xuất khẩu của đất nước,có mặt ở hầu hết tất cả các thị trường trên thế giới. Tuy nhiên sản phẩm cao su của Việt Nam còn gặp nhiều trở ngại năng lực cạnh tranh còn yếu kém so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực như Thái Lan,Malayxia,Indonexia.. cũng như năng lực cạnh tranh của ngành còn yếu kém so với các ngành kinh tế khác Do đó, làm sao phát huy hết nội lực, hết lợi thế để cao su Việt Nam có thể đứng vững và phát triển trên thị trường thế giới vẫn là một câu hỏi bất cập cần có lời giải đáp. Đề tài “Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cao su Việt Nam “ mà em chọn là một đóng góp nhỏ ý kiến của bản thân mong góp phần giải quyết câu hỏi đó. Em xin trân trọng cảm ơn Thầy giáo-Ths Nguyễn Hà Hưng về sự hướng dẫn hết sức tận tình và quý báu, giúp em trong suốt quá trình hoàn thánh báo cáo. Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú và anh chị trong Vụ kinh tế Nông nghiệp – Bộ kế hoạch đầu tư đã giúp em trong thời gian qua 2.Mục đích nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận về năng lực cạnh tranh,và phân tích năng lực cạnh tranh ngành cao su Việt Nam,đồng thời tìm ra điểm mạnh điểm yếu của ngành so với các đối thủ cạnh tranh và so với các ngành cạnh tranh khác.Đề tài sẽ đưa ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng cao su Việt Nam trong thời gian tới 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài + Đối tượng nghiên cứu.Năng lực cạnh tranh ngành cao su Việt Nam +Phạm vị nghiên cứu: năng lực cạnh tranh ngành cao su Việt Nam từ 2000-2009 4. Phương pháp nghiên cứu. Vận dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tê như chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê và phương pháp so sánh theo cách tiếp cận hệ thống để phân tích rõ thực trạng từ đó nhận định tình hình ,đưa ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh ngành cao su Việt Nam trong thời gian tới. 5. Kết cấu của đề tài. Ngoài phần Lời mở đầu và kết luận chuyên đề gổm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của ngành cao su Việt Nam Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cao su Việt Nam CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH 1.1. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm cạnh tranh Cạnh tranh là một khái niệm rất phổ biến của kinh tế, là một đặc trưng của nền sản xuất hàng hóa. Cạnh tranh, hiểu theo nghĩa khái quát, là sự ganh đua giữa những người theo cuối cùng mục đích nhằm đánh bại đối thủ và giành cho mình lợi thế nhiều nhất. Theo ý nghĩa kinh tế, cạnh tranh là quá trình kinh tế mà trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua , tìm mọi biện pháp( cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để đạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình như chiếm lĩnh thị trường, tối đa hóa lợi ích, nâng cao vị thế…Trên bình diện toàn nền kinh tế, cạnh tranh có vai trò thúc đẩy kinh tế phát triển. Cạnh tranh khiến cho các nguồn lưc được phân bổ một cách có hiệu quả nhất thông qua việc kích thích các doanh nghiệp sử dụng tối ưu các nguồn lực, hạn chế các méo mó của thị trường, góp phần phân phối lại thu nhập và nâng cao phúc lợi xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, bằng sự hấp dẫn của lợi nhuận từ việc đi đầu về chất lượng, mẫu mã cũng như áp lực phá sản, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp luôn cải tiến phương thức sản xuất, nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới tổ chức, quản lý để thích ứng với những biến động của thị trường. Nâng cao năng lực cạnh tranh đã trở thành tiền đề, động lực và mục tiêu theo đuổi liên tục trong suốt quá trình phát triển doanh nghiệp. Trên bình diện người tiêu dùng, cạnh tranh tạo ra sự lựa chọn rộng rãi hơn về chủng loại, chất lượng, giá cả, mẫu mã của hàng hóa và dịch vụ. Cạnh tranh bảo đảm rằng cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng không thể áp đặt giá cả một cách tùy tiện. Với khía cạnh đó, cạnh tranh là yếu tố điều tiết thị trường và lành mạnh hóa các mối quan hệ xã hội. Trên bình diện quốc tế, cạnh tranh thúc ép các doanh nghiệp mở rộng, tìm kiếm thị trường với mục đích như tiêu thụ, đầu tư, huy động vốn, lao động, công nghệ, quản lý…trên thị trường thế giới. Thông qua cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp thấy được những lợi thế so sánh cùng những yếu kém của mình để hoàn thiện và phát triển. Như vậy, cạnh tranh cũng như các quy luật, hiện tượng kinh tế, xã hội khác chỉ xuất hiện và phát triển khi có các điều kiện như nhu cầu cạnh tranh, môi trường cạnh tranh và vận hành tốt khi có môi trường cạnh tranh hiệu quả . 1.1.2. Phân loại cạnh tranh 1.1.2.1. Cạnh tranh quốc gia. Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân.Theo đó thì một quốc gia có khả năng cạnh tranh cao hay thấp so với các quốc gia khác trên thế giới thì phải cần xem xét tính bền vững ổn định của nền kinh tế đó,thu hút lượng đầu tư bao nhiêu và có đảm bảo ổn định,nâng cao đời sống người dân tại quốc gia đó hay không. 1.1.2.2 Cạnh tranh giữa ngành Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia làm hai loại : - Cạnh tranh trong nội bộ ngành : là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất kinh doanh một loại dịch vụ. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là một cuộc cạnh tranh tất yếu phải xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, năng lực quản lý...nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để tìm lợi nhuận siêu ngạch. - Cạnh tranh giữa các ngành : là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. 1.1.2.3. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Cạnh tranh giữa các doanh nghiêp trong ngành thực chất là cuộc cạnh tranh có sự thủ tiêu lẫn nhau để giành khách hàng và thị trường chiếm được thị phần lớn hơn,cuộc cạnh tranh dẫn đến là giá cả giảm xuống và có lợi cho người tiêu dùng,Trong khi đó đối với những doanh nghiệp khi tham gia thị trường không chịu được sức ép và sẽ phải từ bỏ thị trường,nhường thị phần của mình cho các doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh hơn 1.1.2.4. Cạnh tranh sản phẩm. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường của các doanh nghiệp, vấn đề sản phẩm bán tới tay khách hàng được coi trọng hàng đầu. Bởi sản phẩm là đại diện cho thương hiệu của doanh nghiệp, cho sự lớn mạnh hoặc yếu kém trong lĩnh vực cung cấp mặt hàng cùng công cụ sử dụng. Cạnh tranh về sản phẩm thường được thể hiện qua các mặt: - Cạnh tranh về trình độ sản phẩm: tuỳ theo những sản phẩm khác nhau để chúng ta lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau có tính chất quyết định trình độ của sản phẩm. Doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh nếu như lựa chọn trình độ sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. - Cạnh tranh về chất lượng: Tùy theo từng sản phẩm với đặc điểm khác nhau để lựa chọn chỉ tiêu phản ánh chất lượng khác nhau. Nếu tạo ra nhiều lợi thế cho chỉ tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành thắng lợi cạnh tranh trên thị trường. - Cạnh tranh về bao bì: Cùng với việc thiết kế bao bì cho phù hợp, doanh nghiệp còn phải lựa chọn cơ cấu sản phẩm phù hợp, lựa chọn cơ cấu hàng hóa và cơ cấu chủng loại hợp lý. - Cạnh tranh về nhãn mác, uy tín sản phẩm. Doanh nghiệp sử dụng công cụ này để đánh trực tiếp vào trực giác của người tiêu dùng. - Cạnh tranh do khai thác hợp lý chu kỳ sống của sản phẩm. Sử dụng biện pháp này, doanh nghiệp cần phải có những quyết định sáng suốt để đưa ra một sản phẩm mới hoặc dừng việc cung cấp một sản phẩm đã lỗi thời. 1.2. Một số vấn đề lý luận về khả năng cạnh tranh 1.2.1 Khái niệm về khả năng cạnh tranh Theo đề án quốc gia về “Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam” (do Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam thực hiện) thì năng lực cạnh tranh (hay khả năng cạnh tranh, tính cạnh tranh) được xem xét ở ba cấp độ: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Năng lực cạnh tranh quốc gia được hiểu là năng lực của một nền kinh tế có thể đạt được sự tăng trưởng bền vững, đảm bảo ổn định kinh tế và nâng cao đời sống của dân cư. Đề án đưa ra 8 nhóm tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia dựa theo các tiêu chí của Diễn đàn kinh tế thế giới(WEF) bao gồm: Độ mở cửa nền kinh tế vai trò và hiệu lực của chính phủ. Sự phát triển của hệ thống tài chính, tiền tệ. Trình độ phát triển công nghệ, trình độ phát triển cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý doanh nghiệp. Số lượng và chất lượng lao động, trình độ phát triển thể chế, năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp là năng lực bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được thể hiện qua thị phần của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp được xác định trên cơ sở bốn nhóm yếu tố cơ bản bao gồm: Chất lượng và khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hóa đầu vào, công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ. Nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ và yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Mức độ cạnh tranh trên lĩnh vực mà ngành/doanh nghiệp kinh doanh và vị thế của ngành/ doanh nghiệp so với các ngành/ doanh nghiệp khác. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ là cơ sở tạo nên sức cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp và tổng hợp năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ tạo nên sức cạnh tranh của một quốc gia. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ thể hiện tập trung ở 4 yếu tố: Giá cả, chất lượng, tổ chức tiêu thụ và uy tín của doanh nghiệp. Trên thực tế, cấp độ cạnh tranh này thường được phân tích lồng ghép với phân tích cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp. Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ mật thiết với nhau. Năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp năng lực cạnh tranh của các ngành/ doanh nghiệp trong khi năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp lại được phản ánh qua năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Đồng thời, năng lực cạnh tranh quốc gia có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp/ ngành. Còn năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ chịu tác động của cả năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp/ ngành và năng lực cạnh tranh quốc gia. Tóm lại, hiểu được mối quan hệ chặt chẽ giữa ba cấp độ này để thấy được sự khác biệt trong việc đánh giá năng lực cạnh tranh ở từng cấp độ cũng như sự tác động qua lại giữa năng lực cạnh tranh ở một cấp với năng lực cạnh tranh ở hai cấp độ còn lại. Đối tượng của khóa luận là năng lực cạnh tranh ở cấp độ ngành. Do vậy, nó sẽ chịu tác động qua lại của cả năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam và năng lực cạnh tranh của các sản phẩm trong chính ngành cao su 1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của ngành hàng nông sản Năng lực sản phẩm của ngành hàng nông sản được thể hiện thông qua nhiều chỉ tiêu. Thật khó để xác định chỉ tiêu nào là bao quát, là quyết định. Ngành hàng có rất nhiều tác nhân tham gia nên để đánh giá vai trò và mức độ tác động của chúng quả là điều không đơn giản. 1.2.2.1 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm Ta biết rằng sản phẩm là đại diện cho một ngành sản phẩm chỉ khi sản phẩm có năng lực cạnh tranh thì mới chứng tỏ ngành sản phẩm đó có khả năng tồn tại và phát triển được Năng lực cạnh tranh của sản phẩm thể hiện ở lợi thế cạnh tranh của nó tức là sự biểu hiện tính trội của mặt hàng đó về chất lượng, cơ chế vận hành của nó trên thị trường, tạo nên sức hấp dẫn và thuận lợi cho khách hàng trong quá trình dùng sản phẩm. Một phẩm chất không thể thiếu được trong thời đại ngày nay là phải đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường, tạo sự an toàn cho người tiêu dùng, không thể thiếu được trong đời sống thường nhật thì nó phải là sản phẩm có tính an toàn cao. Sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao được sản xuất ở các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao. Điều mà người tiêu dùng quan tâm đầu tiên ở sản phẩm là chất lượng sản phẩm, giá cả, khối lượng. Một hàng hóa có khả năng cạnh tranh là hàng hóa đó phải thỏa mãn và tạo niềm tin cho khách hàng hiện tại, thuyết phục khách hàng trong tương lai ở trong và ngoài nước. Như vậy để một ngành tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh quốc tế thì giá cả của sản phẩm ( đã điều chỉnh theo chất lượng) phải tương đương hoặc thấp hơn giá cả của các sản phẩm cạnh tranh. Pj E < p Trong đó Pj : giá cả của sản phẩm j tính theo đồng nội tệ E : tỷ giá hối đoái P : giá quốc tế của sản phẩm cạnh tranh Quy mô của sản phẩm trên thị trường cũng thể hiện năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm. Quy mô đó có thể hiểu là sản phẩm đó có nhiều trên thị trường hoặc không? Dựa vào lợi thế về mặt quy mô và lợi thế tuyệt đối để phát triển quy mô sản phẩm đó lên. Giá thành của sản phẩm là tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí vật chất, dịch vụ, lao động và tiền tệ đã chi ra để sản xuất ra sản phẩm. Nó là căn cứ quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Giá thành 1 đơn vị sản phẩm mà cao thì chứng tỏ sản phẩm đó tiêu tốn nhiều các yếu tố khác, do đó nó khó có thể bán với giá mà có cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Chỉ tiêu giá trị sản phẩm quốc gia là một chỉ số thể hiện khả năng cạnh tranh của sản phẩm thông qua mức độ liên kết bổ trợ đa ngành trong sản xuất. Giá rị sản phẩm của một quốc gia được tính bằng tỷ lệ chi phí nhập khẩu trong cơ cấu giá thành sản phẩm sản xuất trong nước. Nếu chỉ số này cao có giá trị cao chứng tỏ sản xuất sản phẩm còn phụ thuộc vào bên ngoài từ khâu chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất, phải nhập từ bên ngoài, kể cả vốn vay, cho đến đầu tư cơ bản cho xây dựng và vận hành máy móc chế biến do đó dẫn đến làm tăng chi phí sản xuất và phải chịu ảnh hưởng nhiều về biến động giá của các đầu vào phải nhập khẩu. 1.2.2.2 Mức huy động các yếu tố nguồn lực Các yếu tố nguồn lực là yếu tố đầu vào quan trọng của mỗi quá trình sản xuất. Trong ngành hàng nông sản thì điều thì điều này thể hiện rõ nét hơn. Ngành hàng nào mà huy động được nhiều các yếu tố nguồn lực vào quá trình sản xuất sản phẩm thì chắc chắn có điều kiện tạo ra năng lực cạnh tranh cho ngành. Số lượng và chất lượng của các yếu tố nguồn lực được huy động vào quá trình sản xuất của một ngành hàng là nói lên khả năng phát triển của ngành đó. Tỷ lệ tham gia của mỗi yếu tố nguồn lực vào quá trình sản xuất từng loại nông sản tùy thuộc vào các tính chất của quy trình kỹ thuật và tiến bộ công nghệ. Điều đó có nghĩa là tùy thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong ngành hàng đó mà quyết định những tỷ lệ về số lượng và chất lượng của mỗi yếu tố nguồn lực được huy động vào sản xuất. Ngành hàng nông sản chịu tác động rất lớn của các yếu tố nguồn lực vì xuất phát từ những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. Khả năng cạnh tranh của một ngành sản phẩm nông nghiệp tùy thuộc vào mức độ huy động được nhiều các yếu tố đó với chất lượng cao thì khả năng cạnh tranh của nó sẽ tăng lên. Nhưng đây chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là các chủ thể trong ngành hàng phải có trình độ quản lý, biết tổ chức sử dụng có hiệu quả các yếu tố nguồn lực. 1.2.2.3 Các mối liên kết Ta biết rằng bất kỳ một chuỗi ngành hàng, hiệu quả của nó được quyết định bởi mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi. Các mối quan hệ này có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng do tác động trực tiếp đến chi phí trung gian, điều kiện giao nhận hàng và chất lượng của sản phẩm. Giá thành của sản phẩm cuối cùng là tổng chi phí của tất cả các khâu trong chuỗi cộng với chi phí giao dịch giữa các khâu và chi phí này được quyết định bởi mối quan hệ từng khâu. Ngành sản phẩm là chuỗi các tác nhân tham gia vào ngành. Giữa các tác nhân có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất của các tác nhân này là sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất của các tác nhân tiếp theo. Ngành hàng chỉ phát triển được khi quá trình sản xuất của các tác nhân được thông suốt, diễn ra liên tục, không bị gián đoạn ở bất kỳ tác nhân nào. Một đặc điểm kinh doanh nông nghiệp là chịu nhiều rủi ro cao. Do đó ngoài việc sản xuất sản phẩm chuyên môn hóa cần phải sản xuất sản phẩm bổ trợ. Bên cạnh sản phẩm đem lại sự sinh lời nhiều nhất, người nông dân cũng phải phân phối sự đầu tư cho các sản phẩm khác để san sẻ rủi ro. Vì vậy cần lưu ý đến sự bổ sung của các ngành sản phẩm khác. 1.2.2.4 Trình độ quản lý, năng lực cạnh tranh của các tác nhân trong ngành Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm nông sản. Trong cơ chế thị trường hiện nay, chỉ những cơ sở kinh doanh nào có trình độ quản lý thực sự mới tồn tại và thích ứng được. Là các mắt xích trong ngành hàng, các tác nhân có trình độ tổ chức quản lý tốt thì ngành hàng mới phát triển bền vững. Trình độ tổ chức quản lý của các tác nhân mà tốt thì cũng thể hiện năng lực cạnh tranh của ngành. Nếu trong ngành mà có một tác nhân yếu kém thì tất yếu ảnh hưởng đến kết quả chung của toàn ngành. Vì vậy muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn ngành thì phải nâng cao trình độ của tất cả các tác nhân. 1.2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng cao su Từ sự phân tích các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm ta nhận thấy để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng ta phải nâng cao các chỉ tiêu đó. 1.2.3.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Có thể nói chất lượng của sản phẩm quyết định năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Đứng về góc độ người tiêu dùng thì điều mà họ quan tâm nhất là chất lượng của sản phẩm. Một sản phẩm có chất lượng sẽ khiến cho người tiêu dùng cảm thấy an tâm khi sử dụng hơn là sản phẩm kém chất lượng, không có nguồn gốc. Một mặt hàng có những chuẩn mực riêng về chất lượng song đại thế đó là yêu cầu đẹp, tiện dụng, phù hợp thói quen tiêu dùng và văn hóa mỗi dân tộc, bao bì hấp dẫn, thương hiệu tin cậy. Giá bán của sản phẩm cũng là mối quan tâm của người tiêu dùng, giá bán của sản phẩm mà thấp hơn giá bán của sản phẩm cùng loại mà chất lượng của nó cao hơn hoặc ngang bằng thì người tiêu dùng chắc sẽ lựa chọn sản phẩm mà giá thành thấp hơn. Muốn có giá bán thấp hơn thì giá thành của sản phẩm phải thấp. Do đó để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm thì phải hạ giá thành của sản phẩm. Muốn làm được điều này thì tất cả các tác nhân trong ngành cùng tìm các biện pháp để hạ giá thành trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Với những sản phẩm nông nghiệp thì chất lượng sản phẩm thể hiện trên nhãn mác, bao bì, hương vị, mùi, cấu trúc bên ngoài và sự mới lạ, chúng làm tăng hoặc giảm tính hấp dẫn của sản phẩm. Giá thành của sản phẩm nông nghiệp thường do nhiều tác nhân chi phối. Do đó muốn hạ giá thành của sản phẩm thì các tác nhân trong chuỗi ngành hàng nông sản cùng chủ động mổ xẻ, phân tích từng khâu trong quy trình sản xuất và tiêu thụ để phát hiện ra những mặt yếu kém, từ đó áp dụng những biện pháp hữu