WTO là chữ viết tắt của Tổchức Thương mại Thế giới (World
Trade Organization) - tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên
tắc thương mại giữa các quốc gia trên thếgiới. Đây là tổchức Thương
mại lớn nhất toàn cầu, chiếm hơn 90% thương mại thếgiới.
Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được
các nước đàm phán và ký kết.
WTO được thành lập ngày 1/1/1995, kếtục và mởrộng phạm
vi điều tiết thương mại quốc tếcủa tổchức tiền thân, GATT - Hiệp
định chung vềThuếquan Thương mại. GATT ra đời sau Chiến tranh
Thế giới lần thứ II, khi mà trào lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa
biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tếquốc tế đang diễn ra sôi
nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tếTái thiết và Phát triển, thường được biết đến như là
Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quỹ tiền tệ Quốc t ế(IMF) ngày nay.
* WTO là gì?
WTO: Tên viết tắt của 3
chữWorld Trade
Organization.
Ngày thành lập:
1/1/1995
Trụsởchính: Geneva,
Thụy Sỹ
Sốthành viên: 148
nước (tính đến ngày
13/10/2004)
Ngân sách: 162 triệu
francs Thụy Sỹ(sốliệu
năm 2004).
Tổng giám đốc:
Su pa chai Panitchpakdi
(Thái Lan)
Ngay từkhi thành lập (năm 1995), WTO đã có 130 thành viên (nước và vùng lãnh
thổ). Những nước nhỏnhưCu-ba, Mi-an-ma và các nước đang phát triển nhưThái Lan, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin và In-đô-nê-xi-a cũng đón cơhội và tham gia ngay từ đầu. Từ đó đến
nay, WTO đã kết nạp thêm 18 thành viên mới, đưa tổng sốthành viên lên 148, trong đó 2/3
là các nước đang và chậm phát triển. Ngoài thành viên chính thức, hiện nay có 25 nước
đang trong quá trình đàm phán gia nhập tổchức này nhưLiên bang Nga, U-crai-na, Lào,
Việt Nam... Hiện nay, WTO chiếm tới trên 90% thương mại toàn cầu và hoạt động độc lập
với Liên hợp quốc. Liên hợp quốc có 189 nước thành viên thì có trên 140 là thành viên của
WTO.
19 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3077 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giới thiệu về WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổ chức Thương mại Thế giới
(World Trade Organization)
1. WTO - lịch sử hình thành và phát triển
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới (World
Trade Organization) - tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên
tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới. Đây là tổ chức Thương
mại lớn nhất toàn cầu, chiếm hơn 90% thương mại thế giới.
Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được
các nước đàm phán và ký kết.
WTO được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm
vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân, GATT - Hiệp
định chung về Thuế quan Thương mại. GATT ra đời sau Chiến tranh
Thế giới lần thứ II, khi mà trào lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa
biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi
nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển, thường được biết đến như là
Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày nay.
* WTO là gì?
WTO: Tên viết tắt của 3
chữ World Trade
Organization.
Ngày thành lập:
1/1/1995
Trụ sở chính: Geneva,
Thụy Sỹ
Số thành viên: 148
nước (tính đến ngày
13/10/2004)
Ngân sách: 162 triệu
francs Thụy Sỹ (số liệu
năm 2004).
Tổng giám đốc:
Supachai Panitchpakdi
(Thái Lan)
Ngay từ khi thành lập (năm 1995), WTO đã có 130 thành viên (nước và vùng lãnh
thổ). Những nước nhỏ như Cu-ba, Mi-an-ma và các nước đang phát triển như Thái Lan, Ma-
lai-xi-a, Phi-líp-pin và In-đô-nê-xi-a cũng đón cơ hội và tham gia ngay từ đầu. Từ đó đến
nay, WTO đã kết nạp thêm 18 thành viên mới, đưa tổng số thành viên lên 148, trong đó 2/3
là các nước đang và chậm phát triển. Ngoài thành viên chính thức, hiện nay có 25 nước
đang trong quá trình đàm phán gia nhập tổ chức này như Liên bang Nga, U-crai-na, Lào,
Việt Nam... Hiện nay, WTO chiếm tới trên 90% thương mại toàn cầu và hoạt động độc lập
với Liên hợp quốc. Liên hợp quốc có 189 nước thành viên thì có trên 140 là thành viên của
WTO.
2. Thủ tục gia nhập WTO
Bất kỳ một quốc gia hay lãnh thổ nào có đủ quyền tự quản trong các chính sách
thương mại đều có thể gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nhưng nhất thiết
phải được sự chấp thuận của đại đa số các nước thành viên tổ chức này.
Quá trình gia nhập WTO thường bao gồm 4 bước cơ bản:
Giới thiệu về mình. Chính phủ của quốc gia hay lãnh thổ nào muốn nộp đơn gia
nhập WTO phải miêu tả tất cả các khía cạnh cụ thể của những chính sách kinh tế, thương
mại của mình (thường được gọi là minh bạch hoá chính sách). Sau đó đệ trình lên WTO
dưới dạng một bản chào và sẽ được ban công tác WTO kiểm tra lại.
Chỉ ra những gì mình có. Sau khi đệ trình bản chào lên WTO, quốc gia hay lãnh thổ
muốn gia nhập tổ chức này sẽ phải đàm phán song phương với từng quốc gia thành viên.
Phải đàm phán song phương bởi các nước hay lãnh thổ khác nhau sẽ có những lợi ích
thương mại khác nhau. Những cuộc đàm phán này sẽ bao gồm rất nhiều lĩnh vực từ thuế
quan, thâm nhập thị trường đến các chính sách cụ thể về hàng hoá và dịch vụ... Dù là đàm
phán song phương, những cam kết của thành viên mới cũng phải phù hợp với tất cả các
nước thành viên khác theo nguyên tắc không phân biệt đối xử. Mặt khác, những cuộc đàm
phán cũng quyết định các lợi ích (chẳng hạn như những cơ hội về xuất, nhập khẩu) mà các
nước thành viên cũ mong đợi thành viên trong tương lai mang lại. Vì thế, những cuộc đàm
phán có thể sẽ rất căng thẳng và phức tạp.
Định ra một thời điểm thực hiện các cam kết gia nhập. Sau khi quốc gia hay lãnh
thổ hoàn thành hai bước trên, ban công tác WTO sẽ quyết định thời hạn gia nhập của họ và
cho ghi trên một văn bản có tên là "Hiệp ước thành viên sơ bộ" (còn gọi là "Nghị định thư
về quá trình gia nhập"). Đồng thời đưa ra danh sách (và cả thời hạn thực hiện) những cam
kết khi trở thành thành viên WTO của quốc gia, lãnh thổ này.
Quyết định. Trong bước cuối cùng này, quốc gia hay lãnh thổ muốn gia nhập WTO
phải đệ trình Nghị định thư về quá trình gia nhập cũng như danh sách các cam kết lên Hội
nghị Bộ trưởng hoặc Đại hội đồng WTO. Nếu 2/3 thành viên của tổ chức này bỏ phiếu chấp
thuận, quốc gia, lãnh thổ đó sẽ được phép ký vào bản Nghị định thư và trở thành thành viên
của WTO.
II. Cơ cấu tổ chức.
WTO có một cơ cấu gồm 3 cấp :
1. Các cơ quan lãnh đạo chính trị và có quyền ra quyết định (decision-making power)
bao gồm Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan giải quyết tranh chấp và cơ quan
kiểm điểm chính sách thương mại;
2. Các cơ quan thừa hành và giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa
phương, bao gồm Hội đồng GATT, Hội đồng GATS, và Hội đồng TRIPS;
3. Cuối cùng là Cơ quan thực hiện chức năng hành chính - thư ký là Tổng giám đốc
và Ban thư ký WTO.
III. Cơ cấu tổ chức của WTO
WTO có một cơ cấu gồm 3 cấp :
1. Các cơ quan lãnh đạo chính trị và có quyền ra quyết định (decision-making power)
bao gồm Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan giải quyết tranh chấp và cơ quan
kiểm điểm chính sách thương mại;
2. Các cơ quan thừa hành và giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa
phương, bao gồm Hội đồng GATT, Hội đồng GATS, và Hội đồng TRIPS;
3. Cuối cùng là Cơ quan thực hiện chức năng hành chính - thư ký là Tổng giám đốc
và Ban thư ký WTO.
1. Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan giải quyết tranh chấp và Cơ
quan kiểm điểm chính sách thương mại
· Hội nghị Bộ trưởng WTO: là cơ quan lãnh đạo chính trị cao nhất của WTO họp ít
nhất 2 năm một lần, thành viên là đại diện cấp Bộ trưởng của tất cả các thành viên. Điều IV.
1 Hiệp định thành lập WTO quy định Hội nghị Bộ trưởng WTO thực hiện tất cả các chức
năng của WTO và có quyền quyết định mọi hành động cần thiết để thực hiện những chức
năng đó. Hội nghị Bộ trưởng WTO cũng có quyền quyết định về tất cả các vấn đề trong
khuôn khổ bất kỳ một hiệp định đa phương nào của WTO.
· Đại hội đồng WTO: trong thời gian giữa các khoá họp của Hội nghị Bộ trưởng
WTO, các chức năng của Hội nghị Bộ trưởng WTO do Đại hội đồng (General-Council) đảm
nhiệm. Đại hội đồng WTO hoạt động trên cơ sở thường trực tại trụ sở của WTO ở Geneva,
Thuỵ sỹ. Thành viên của Đại hội đồng WTO là đại diện ở cấp đại sứ của chính phủ tất cả
các thành viên. Đa số các nước đang phát triển thường cử luôn Đại sứ, Trưởng đại diện bên
cạnh Liên hợp quốc tại Geneva làm Đại sứ tại WTO; các nước phát triển, đặc biệt là các
cường quốc thương mại hàng đầu như Mỹ, EU đều cử Đại sứ riêng về WTO tại Geneva.
Các Uỷ ban báo cáo lên Đại hội đồng WTO.
Đại hội đồng có quyền thành lập các Uỷ ban giúp việc và báo cáo trực tiếp lên Đại
hội đồng là : Uỷ ban về thương mại và phát triển; Uỷ ban về các hạn chế cán cân thanh toán;
Uỷ ban về ngân sách, tài chính và quản trị; Uỷ ban về các hiệp định thương mại khu vực. Ba
Uỷ ban đầu được thành lập theo hiệp định về thành lập WTO, Uỷ ban cuối cùng được thành
lập vào tháng 2-1996 theo quyết định của Đại hội đồng WTO.
-Ngoài ra còn có hai Uỷ ban là "Uỷ ban về hàng không dân dụng" và "Uỷ ban về mua
sắm chính phủ" được thành lập theo quyết định của Vòng Tôkyô và có số thành viên hạn
chế (chỉ những nước ký kết các "bộ luật" có liên quan của Vòng Tôkyô mới được tham gia),
vẫn tiếp tục hoạt động trong khuôn khổ của WTO. Nhưng những Uỷ ban này không phải
báo cáo (report) mà chỉ có nghĩa vụ thông báo (notify) thường xuyên về hoạt động của họ
lên Đại hội đồng WTO.
· Cơ quan giải quyết tranh chấp và Cơ quan kiểm điểm chính sách thương mại: Điều
IV. Hai hiệp định WTO quy định, ngoài các việc thực hiện các chức năng của Hội nghị Bộ
trưởng WTO trong thời gian giữa hai khoá họp. Đại hội đồng WTO còn thực hiện những
chức năng khác được trao trực tiếp theo các hiệp định thương mại đa phương, trong đó quan
trọng nhất là chức năng giải quyết tranh chấp và chức năng kiểm điểm chính sách thương
mại. Chính vì vậy mà Đại hội đồng WTO cũng đồng thời là "cơ quan giải quyết tranh chấp"
(DSB-Dispute Settlement Body) khi thực hiện các chức năng giải quyết tranh chấp và là "cơ
quan kiểm điểm chính sách thương mại” (TPRB-Trade Policy Review Body) khi thực hiện
chức năng kiểm điểm chính sách thương mại.
III. Mục tiệu hoạt động và chức năng của WTO
WTO với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, thực
hiện những mục tiêu đã được nêu trong Lời nói đầu của Hiệp định GATT 1947 là nâng cao
mức sống của nhân dân các thành viên, đảm bảo việm làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới.
Cụ thể WTO có 3 mục tiêu sau:
• Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục vụ
cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường;
• Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa
phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm cho các
nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng thụ
những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu
phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập
sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới;
• Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên,
bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
WTO thực hiện 5 chức năng sau:
• Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thoả thuận thương mại đa
phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành
viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ
• Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương
trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
• Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc
thực hiện và giải thiứch Hiệp định WTO và các hiệp định thuơng mại đa phương và
nhiều bên.
• Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo
đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định của
WTO, Hiệp định thành lập WTO (phụ lục 3) đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính
sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên.
• Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ
Quốc tế và Ngân hàng Thế giới trong viêc hoạch định những chính sách và dự báo về
những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
2. Các cơ quan thừa hành giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa
phương
WTO có 3 hội đồng (Council) được thành lập để giám sát việc thực thi 3 hiệp định
thương mại đa phương là: Hội đồng GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng TRIPS. Tất cả
các nước thành viên đều có quyền tham gia vào hoạt động của 3 hội đồng này. Ba hội đồng
nói trên báo cáo trực tiếp các công việc của mình lên Đại hội đồng WTO.
Ngoài ra còn có các cơ quan được các Hội đồng của WTO thành lập với tư cách là cơ
cấu trực thuộc (subsidiary bodies) để giúp các hội đồng này trong việc thực hiện các chức
năng kỹ thuật, ví dụ như “Uỷ ban về thâm nhập thị trường”, “Uỷ ban về trợ giá nông
nghiệp” và các "Nhóm công tác" (Working group) được thành lập trên cơ sở tạm thời để
giải quyết những vấn đề cụ thể, ví dụ như các “Nhóm công tác về việc gia nhập WTO” của
một số nước
3. Tổng giám đốc và Ban thư ký WTO
Khác với GATT 1974, WTO có một ban thư ký rất quy mô, bao gồm khoảng 500
viên chức và nhân viên thuộc biên chế chính thức của WTO. Đứng đầu ban thư ký WTO là
Tổng giám đốc WTO. Tổng giám đốc WTO do Hội nghị Bộ trưởng bổ nhiệm với nhiệm kỳ
4 năm. Ngoài vai trò điều hành, Tổng giám đốc của WTO còn có một vai trò chính trị rất
quan trọng trong hệ thống thương mại đa phương. Chính vì vậy mà việc lựa chọn các ứng
cử viên vào chức vụ này luôn là một cuộc chạy đua ác liệt giữa các nhân vật chính trị quan
trọng, cấp Bộ trưởng, Phó Thủ tướng hoặc Tổng thống (Trong số các ứng cử viên vào chức
vụ Tổng giám đốc đầu tiên của WTO có ông Salinas, cựu Tổng thống Mêhicô).
Quyền hạn và trách nhiệm của Tổng giám đốc do Hội nghị Bộ trưởng quyết định.
Biên chế Ban thư ký WTO do Tổng giám đốc quyết định. Tổng giám đốc và thành viên Ban
thư ký WTO có quy chế tương tự như của viên chức các tổ chức quốc tế, hoạt động độc lập
và chỉ tuân theo các quyết định và tôn chỉ của WTO. Họ được hưởng các quyền ưu đãi,
miễn trừ tương tự như viên chức của các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc. Cũng như
những người tiền nhiệm trước kia trong GATT, Tổng giám đốc WTO có vai trò hết sức
quan trọng, dẫn dắt các vòng đàm phán thương mại đa biên và giải quyết tranh chấp ( Ông
Rugiero, Tổng giám đốc sắp mãn nhiệm của WTO đã đóng vai trò trung gian hoà giải rất
tích cực và có hiệu quả trong vụ tranh chấp giữa Mỹ và EU liên quan đến việc áp dụng các
đạo luật Helms-Burton và D’Amaton-Kennedy năm 1997). Vị trí đặc biệt của Tổng giám
đốc WTO thể hiện một trong những nét đặc trưng trong ngoại giao đa phương ngày nay khi
trên thực tế các quan chức lãnh đạo cao cấp của các tổ chức quốc tế ngày càng đóng vai trò
"điều hành" (managing) nhiều hơn là "chấp hành" (executive).
IV. Tư cách thành viên WTO
Tuy là một tổ chức quốc tế liên chính phủ nhưng thành viên của WTO không chỉ có
các quốc gia có chủ quyền mà có cả những lãnh thổ riêng biệt, ví dụ như EU, Hồng Kông,
Macao.
Có hai loại thành viên theo quy định của hiệp định về WTO : thành viên sáng lập và
thành viên gia nhập. Thành viên sáng lập là những nước là một bên ký kết GATT 1947 và
phải ký, phê chuẩn Hiệp định về WTO trước ngày 31-12-1994 ( tất cả các bên ký kết GATT
1947 đều đã trở thành thành viên sáng lập của WTO). Thành viên gia nhập là các nước hoặc
lãnh thổ gia nhập Hiệp định WTO sau ngày 1-1-1995. Các nước này phải đàm phán về các
điều kiện gia nhập với tất cả các nước đang là thành viên của WTO và quyết định gia nhập
phải được Đại hội đồng WTO bỏ phiếu thông qua với ít nhất hai phần ba số phiếu thuận.
Khác với việc gia nhập, việc rút khỏi WTO phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định riêng
của từng nước. Điều XV Hiệp định về WTO quy định việc rút khỏi WTO bao hàm cả việc
rút khỏi tất cả các hiệp định thương mại đa phương và sẽ có hiệu lực sau sáu tháng kể từ
ngày WTO nhận được thông báo bằng văn bản về việc rút. Thượng viện Mỹ khi bỏ phiếu
cho phép Tổng thống phê chuẩn Hiệp định WTO đã thông qua quyết định về việc nước này
sẽ rút khỏi WTO nếu một Uỷ ban đặc biệt bao gồm năm cựu thẩm phán liên bang của Mỹ
kết luận rằng Mỹ đã bị cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO xử cho thua một cách "phi
lý" hoặc các quyền lợi cơ bản (substantial) của Mỹ đã bị "vi phạm" trong ba quyết định liên
tiếp của cơ quan này. Việc EU rút khỏi WTO phức tạp hơn vì Uỷ ban châu Âu ( Cơ quan
hành pháp của Liên minh châu Âu) không có thẩm quyền thay mặt cho tất cả các nước
thành viên EU để ra một quyết định như vậy. Đây là một vấn đề còn đang tranh cãi giữa các
chuyên gia pháp lý của EU. Một số cho rằng EU chỉ có thể rút khỏi WTO khi tất cả các
nước thành viên EU đều rút khỏi tổ chức này. Một số khác cho rằng chỉ cần một hoặc một
số thành viên chủ chốt của EU như Đức, Pháp, Anh...rút khỏi WTO cũng đủ để cho EU
không còn tư cách đại diện cho 15 nước thành viên tại tổ chức này.
Ngân sách hoạt động của WTO do tất cả các nước thành viên đóng góp trên cơ sở
tương ứng với phần của mỗi nước trong thương mại quốc tế. Tỷ lệ đóng góp tối thiểu là
0,03% ngân sách của WTO.
V. Cơ chế ra quyết định của WTO
Về phương diện ra quyết định, WTO là một tổ chức kinh tế quốc tế liên chính phủ
khác với một số tổ chức khác. Về nguyên tắc, các quyết định lớn và quan trọng nhất của
WTO do chính phủ tất cả các nước thành viên thông qua, hoặc ở cấp Bộ trưởng tại Hội nghị
Bộ trưởng hoặc ở cấp Đại sứ tại Đại hội đồng WTO. Tất cả các quyết định này thông
thường được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Khác với IMF hoặc WB, Ban thư ký hoặc
Tổng giám đốc WTO không được các nước thành viên chuyển giao thực hiện những quyền
lực quan trọng và quan điểm của WTO không ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách
thương mại của các nước thành viên (đây là sự khác nhau cơ bản giữa WTO và IMF hoặc
WB). Những nghĩa vụ trong WTO là kết quả của các cuộc đàm phán thương mại đa phương
trên cơ sở nhân nhượng và thoả hiệp giữa tất cả các nước. Việc không thực hiện một nghĩa
vụ trong WTO, trong trường hợp xấu nhất chỉ có thể dẫn đến việc nước bị thiệt hại có quyền
yêu cầu của WTO cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa nhưng phải tương ứng với mức
độ thiệt hại mà nước này đã phải chịu. Nếu so sánh với các biện pháp chế tài của IMF hoặc
WB thì có thể nói là "kỷ luật tập thể" ở WTO nói chung vẫn còn "mềm" và "nhẹ" hơn.
Theo điều XVI, khoản một của Hiệp định về WTO, cơ chế ra quyết định của WTO sẽ
tiếp tục cách làm hơn 40 năm qua của GATT 1947, có nghĩa là WTO sẽ tiếp tục áp dụng
nguyên tắc đồng thuận (consensus) trong việc ra quyết định, mặc dù Hiệp định về WTO có
một số điều khoản về việc bỏ phiếu.
Để tránh trường hợp việc thông qua quyết định có thể bị phong toả hoặc trì hoãn,
Hiệp định về WTO quy định một số trường hợp bỏ phiếu như sau:
· Quyết định sửa đổi một số nguyên tắc nền tảng như "tối huệ quốc" , nguyên tắc "đãi
ngộ quốc gia" (phải được sự nhất trí của tất cả các nước thành viên).
· Các quyết định về việc giải thích các điều khoản của Hiệp định WTO và các hiệp
định đa biên và cho phép một số nước miễn thực hiện một nghĩa vụ nào đó cần được ba
phần tư số phiếu thuận.
· Các quyết định sửa đổi các điều khoản khác trong các hiệp định thương mại đa
phương cần được hai phần ba số phiếu thuận. Những nước không đồng ý với quyết định của
đa số có thể bị Hội nghị Bộ trưởng WTO yêu cầu rút khỏi WTO.
VI. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Là một tổ chức quốc tế dựa trên các nghĩa vụ pháp lý(rule-based),GATT trước kia
cũng như WTO hiện nay đều cần có một cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả và công bằng,
nhằm bảo đảm để tất cả các nước thành viên, dù lớn hay nhỏ, dù là nước phát triển hay đang
phát triển cũng đều phải tuân thủ “luật chơi chung” của thương mại quốc tế. Cơ chế giải
quyết tranh chấp của GATT 1947 đã được hầu hết các chuyên gia về thương mại quốc tế
đánh giá rất cao và được công nhận như là một trong những thành công quan trọng nhất của
GATT sau gần 50 năm tồn tại. Giáo sư Luật kinh tế quốc tế Ernst-Ulrich Petersmann, một
trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về GATT/WTO đã có nhận xét như sau "cơ chế
giải quyết tranh chấp của GATT có tầm quan trọng sống còn đối với việc duy trì một hệ
thống thương mại quốc tế mở cửa, bởi vì cơ chế đó không chỉ đơn thuần giải quyết êm thấm
các tranh chấp mà nó còn là công cụ bảo đảm sự tin cậy về mặt pháp lý đối với các cam kết
của các chính phủ và quan trọng hơn cả đó là một vũ khí dùng để răn đe những nước chủ
trương chính sách ngoại giao thương mại dựa trên sức mạnh". Những nguyên tắc và thủ tục
giải quyết tranh chấp của GATT đã được WTO kế thừa và phát triển. Sau gần 5 năm hoạt
động, Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO đã thực sự trở thành một trong những định
chế có quyền lực nhất trên thế giới. Ngay cả các siêu cường như EU, Mỹ cũng phải chấp
nhận đưa các tranh chấp của họ ra giải quyết trước WTO và chấp nhận thực hiện các quyết
định của Cơ quan giải quyết tranh chấp, mặc dù đôi lúc những nước này đã công khai phản
đối lại các quyết định này, một điều khó có thể tưởng tượng tại các tổ chức quốc tế khác, ví
dụ như Liên hợp quốc.
1. Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT 1947
Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT 1947 được xây dựng trên cơ sở của Điều
XXII và Điều XXIII Hiệp định GATT. Điều XXII quy định về thủ tục tư vấn (consultation)
giữa các bên ký kết liên quan đến việc áp dụng và thực hiện GATT. Điều XXIII quy định về
thủ tục hoà giải (conciliation) giữa các bên có tranh chấp trong trường hợp quyền lợi thương
mại của một nước