Trại chăn nuôi Tiền Phong được thành lập vào năm 1978, thuộc hợp tác xã sản xuất Nông nghiệp Tiền Phong, Điện Thọ, Điện Bàn, Quảng Nam; là trại chăn nuôi tập thể đầu tiên của huyện, tỉnh. Đàn lợn lúc đầu là giống lợn ngoại (Yorkshire, Landrace) được nhập từ thành phố Hồ Chí Minh về là 100 nái ngoại.
Trại duy trì, phát triển ổn định tốt, đến năm 1996 hợp tác xã giao trại lại cho ông Nguyễn Đức Sơn. Từ 1996 đến nay trại được củng cố và phát triển liên tục.
2. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Trại chăn nuôi Tiền Phong được xây dựng trên mảnh đất có nguồn lương thực, thực phẩm phong phú thuộc xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
- Phía Bắc giáp với xã Điện Phước là nơi trồng lúa, ngô, lạc và chăn nuôi chủ yếu.
- Phía Nam giáp với xã Điện Quang là nơi trồng trọt các loại hoa màu, rau xanh cung cấp nguồn thức ăn sạch cho lợn.
- Phía Đông giáp với xã Điện Trung, là nơi có dãi đất biền ven sông Thu Bồn, sản xuất cây lương thực, cây họ đậu, rau xanh phục vụ cho chăn nuôi.
- Phía Tây giáp với xã Điện Hồng, phía Tây - Bắc có ga Nông Sơn.
- Hướng Bắc có đường 14 D kéo dài từ đường Trường Sơn huyện Nam Giang qua Thị Trấn Ái Nghĩa Huyện Đại Lộc đến Thị Trấn Vĩnh Điện Huyện Điện Bàn, giáp đường Quốc lộ 1A, thuận lợi cho việc vận chuyển thức ăn và cung cấp giống cho các vùng lân cận.
- Phía Đông và Đông Nam có sông Thu Bồn chảy dài đến Vĩnh Điện, tạo môi trường tiểu khí hậu có phần thuận lợi trong việc chăn nuôi, và là nơi vận chuyển thức ăn trong mùa mưa lụt.
61 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3093 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiệu quả của việc bổ sung chế phẩm axit amin tổng hợp L- Lysine và DL-Methionine trong khẩu phần lợn thịt F1 (MóngCái –Yorkshire) nuôi ở trại Tiền Phong, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1
TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA TRẠI TIỀN PHONG
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Trại chăn nuôi Tiền Phong được thành lập vào năm 1978, thuộc hợp tác xã sản xuất Nông nghiệp Tiền Phong, Điện Thọ, Điện Bàn, Quảng Nam; là trại chăn nuôi tập thể đầu tiên của huyện, tỉnh. Đàn lợn lúc đầu là giống lợn ngoại (Yorkshire, Landrace) được nhập từ thành phố Hồ Chí Minh về là 100 nái ngoại.
Trại duy trì, phát triển ổn định tốt, đến năm 1996 hợp tác xã giao trại lại cho ông Nguyễn Đức Sơn. Từ 1996 đến nay trại được củng cố và phát triển liên tục.
2. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Trại chăn nuôi Tiền Phong được xây dựng trên mảnh đất có nguồn lương thực, thực phẩm phong phú thuộc xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
- Phía Bắc giáp với xã Điện Phước là nơi trồng lúa, ngô, lạc và chăn nuôi chủ yếu.
- Phía Nam giáp với xã Điện Quang là nơi trồng trọt các loại hoa màu, rau xanh cung cấp nguồn thức ăn sạch cho lợn.
- Phía Đông giáp với xã Điện Trung, là nơi có dãi đất biền ven sông Thu Bồn, sản xuất cây lương thực, cây họ đậu, rau xanh phục vụ cho chăn nuôi.
- Phía Tây giáp với xã Điện Hồng, phía Tây - Bắc có ga Nông Sơn.
- Hướng Bắc có đường 14 D kéo dài từ đường Trường Sơn huyện Nam Giang qua Thị Trấn Ái Nghĩa Huyện Đại Lộc đến Thị Trấn Vĩnh Điện Huyện Điện Bàn, giáp đường Quốc lộ 1A, thuận lợi cho việc vận chuyển thức ăn và cung cấp giống cho các vùng lân cận.
- Phía Đông và Đông Nam có sông Thu Bồn chảy dài đến Vĩnh Điện, tạo môi trường tiểu khí hậu có phần thuận lợi trong việc chăn nuôi, và là nơi vận chuyển thức ăn trong mùa mưa lụt.
3. ĐỊA CHẤT, THỔ NHƯỠNG
Trại nằm cách sông Thu Bồn 700 m, hàng năm được một lượng phù sa bồi đắp nên đất ở đây màu mỡ thuận lợi cho việc trồng ngô, lúa, cỏ, rau...phục vụ tốt cho ngành chăn nuôi.
4. KHÍ HẬU
Do chịu ảnh hưởng nhiệt đới gió mùa rõ rệt nên nhiệt độ biến thiên giữa các mùa rất lớn. Nhiệt độ trung bình trong năm 25,60C, nhiệt độ cao nhất là 380C–390C (vào các tháng 5-6-7), nhiệt độ thấp nhất trong năm là 16–170C (vào các tháng 9-10-11), sự thay đổi đột ngột về nhiệt độ khá cao giữa các tháng dễ gây nên dịch bệnh đối với gia súc, đặc biệt là gia súc non thường bị bệnh về đường tiêu hoá, đường hô hấp, đồng thời công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc gặp không ít khó khăn.
* Thời tiết có hai mùa rõ rệt :
+ Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8.
+ Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, mưa nhiều nhất vào các tháng 9, 10, 11; lượng mưa trung bình 900 – 1000 mm, tuy nhiên do lượng mưa phân bố không đều lại nằm trên vùng đất thấp lụt gây nên lầy lội, ô nhiễm môi trường, bất lợi cho đi lại và vận chuyển thức ăn.
* Gió bão:
+ Có hai hướng gió chính: Đông Bắc và Tây Nam
Gió mùa Đông Bắc thường vào tháng 10 đến tháng 1 năm sau, gió có tính chất lạnh kèm theo mưa nên nhiệt độ không khí thấp, ẩm độ không khí cao. Đây là điều kiện làm gia súc ngã bệnh, do mất nhiều năng lượng chống lại lạnh nên sức đề kháng cơ thể vật nuôi giảm.
Gió mùa Tây Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 7, có tính chất hanh khô, gia súc mệt mỏi, ăn ít, ảnh hưởng đến sức khoẻ gia súc non.
* Độ ẩm: trung bình 50 – 70%.
5. DIỆN TÍCH VÀ CHUỒNG TRẠI
Diện tích trại 1 là 3,5 ha, chuyên nuôi lợn đực giống, lợn ngoại. Ngoài ra còn một trại thứ 2, chuyên nuôi bò lai Sind tại Điện Quang với diện tích 4,5 ha.
Trại được xây dựng kiên cố, nền chuồng cao tương đối khô ráo, thoáng mát về mùa hè, ngược lại mùa đông ấm và kín gió, đảm bảo vệ sinh, cách khu dân cư 200 m, cách đường nhựa khoảng 400m.
- Hướng chuồng :
Có 2 dãy chuồng được xây song song và cách nhau 50m, xây hướng Đông Nam. Ngoài ra, có một dãy chuồng chuyên nuôi Móng Cái giống và một dãy chuồng bò.
Mỗi dãy trại có 40 ô chuồng, được xây dựng đúng quy cách (kiểu chuồng K.54), chuồng hai mái, hành lang ở giữa, chuồng xây 2 bên, ngoài có sân chơi, có hệ thống bi ô ga, đảm bảo được khâu vệ sinh, mỗi ô chuồng đều có đầy đủ máng ăn, máng uống cố định. Hiện nay trại có 15 chuồng sàn cho nái ngoại và Móng Cái đẻ. Chuồng lợn nái có ô riêng để lợn con tập ăn và sưởi ấm. Đặc biệt cơ sở đã nâng cấp được 16 ô chuồng chống lụt.
6. CHỨC NĂNG CỦA TRẠI
Trại Tiền Phong là nơi sản xuất và cung cấp giống lợn ngoại (Yorkshire, Landrace, Omega,…), lợn Móng Cái, bò lai Sind.
- Trại Tiền Phong chủ yếu cung cấp tinh lỏng lợn cho các vùng lân cận, cung cấp thuốc thú y, thức ăn gia súc. Mỗi ngày trại cung ứng khoảng 250 – 350 liều tinh cho các huyện Điện Bàn, Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình, Đại Lộc, Hoà Vang, Hoà Khánh.
- Mỗi năm trại cung cấp khoảng 2 – 3 tấn thịt gà cho thị trường Quảng Nam – Đà Nẵng.
- Nhiệm vụ chính của trại: Là một nơi tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, áp dụng và phổ biến cho chăn nuôi tại địa phương.
7. CƠ CẤU ĐÀN VẬT NUÔI CỦA TRẠI
Trong những năm gần đây, chăn nuôi của trại cũng như các tỉnh lân cận chịu ảnh hưởng của đợt bão số 6 và lụt kéo dài làm cho đàn gia súc gia cầm giảm xuống.
Bảng1: Cơ cấu đàn gia súc, gia cầm của trại năm 2008
Loại gia súc
Đơn vị tính
Số lượng
%
1. Lợn
*Tổng số đàn
- Đực giống cơ bản
+ Đực ngoại
+ Đực Móng Cái
+ Đực hậu bị
- Lợn nái
+ Nái ngoại
+ Nái Móng Cái
+ Nái F1
- Móng cái con nuôi giống
- Lợn thịt
2. Bò: chủ yếu là bò lai Sind
- Tổng đàn
+ Bò Cái
+ Bò đực
+ Bê
3. Gia cầm
- Tổng đàn
+ Gà
+ Vịt
+ Ngan
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
Con
400
51
27
4
20
94
17
71
6
61
194
85
57
2
26
3550
3500
43
7
100
12,75
6,75
1
5
23,5
4,25
17,75
1,5
15,25
48,5
100
67,1
2,4
30,5
100
98,6
1,2
0,2
8. TÌNH HÌNH THỨC ĂN VÀ CÔNG TÁC THÚ Y
8.1. Tình hình thức ăn
- Sử dụng thức ăn công nghiệp cho đàn lợn con.
- Tự trộn thức ăn cho lợn thịt, lợn đực giống, lợn nái,...theo các thức ăn tại địa phương như ngô, lúa, cám gạo, bánh dầu, Premix vitamin, Lysine, Methionine.
8.2. Công tác thú y
+ Phòng dịch
- Sát trùng định kỳ bằng Virkons, farfewid,…
- Thường xuyên tiêm phòng các bệnh: dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương hàn, lở mồm long móng, cúm gia cầm, suyễn, parvo, Auizefski, lepto theo quy trình, theo định kỳ.
+ Điều trị: Điều trị tích cực bằng các loại kháng sinh, trợ sức,...
9. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN
9.1. Thuận lợi
Trại được sự quan tâm của các cấp ban ngành địa phương về nhiều mặt: chính sách nhà nước, tài chính ngân hàng, hỗ trợ chăn nuôi, hỗ trợ kỹ thuật, khuyến nông.
Trại có nhiều kinh nghiệm trong việc chăn nuôi giống, điều trị, thú y nên thành công trong việc khống chế dịch bệnh, nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi.
Có nhiều đối tác, quan hệ giao dịch tạo đầu ra cho sản phẩm sản xuất cũng như sản phẩm dịch vụ.
Hàng năm, trại được một lượng phù sa bồi đắp thuận lợi cho trồng cỏ, trồng các loại đậu, cây ngô,... cung cấp thức ăn cho gia súc.
Trại gần đường quốc lộ và tỉnh lộ nên thuận lợi giao lưu, vận chuyển, mua bán.
9.2. Khó khăn
Ngoài những thuận lợi trên, trại còn gặp phải những khó khăn như sau:
Điện Bàn là vùng chịu ảnh hưởng nhiều về thiên tai, bão lụt, nên nhiều năm bão lụt lớn thường gây tổn thất cho trại.
Nguồn vốn không đáp ứng đủ để mở rộng quy mô sản xuất và kinh doanh của trại.
Còn thiếu nhiều phương tiện kỹ thuật để kiểm tra, chẩn đoán bệnh nhanh và chính xác.
Hiện nay trại đang thiếu công nhân, trung cấp thú y, bác sỹ…
PHẦN 2
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới, chăn nuôi lợn là một bộ phận rất quan trọng trong công nghiệp chăn nuôi gia súc, thịt lợn chiếm 40% tổng các loại thịt (Giáo trình chăn nuôi lợn - 2005). Ở nước ta, chăn nuôi lợn chiếm vị trí hàng đầu trong ngành chăn nuôi, và có vai trò quan trọng trong hệ thống sản xuất nông nghiệp. Cùng với nghề trồng lúa nước, nghề chăn nuôi lợn là một trong hai hợp phần quan trọng và xuất hiện sớm nhất trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam.
Trong những năm qua, ngành chăn nuôi lợn đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Các mô hình chăn nuôi lợn được hình thành và phát triển ở các tỉnh miền Nam và các tỉnh phía Bắc, hình thức chăn nuôi lợn theo trang trại và doanh nghiệp tư nhân hình thành và phát triển mạnh. Ở nước ta thịt lợn chiếm gần 80% tổng lượng các loại thịt tiêu thụ trên thị trường (Trần Trọng Chiến). Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi lợn nước ta đã có sự gia tăng về số lượng, chất lượng cũng như tổng sản lượng thịt.
Hiện nay, chăn nuôi lợn ở nước ta đóng vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bởi vậy, nâng cao năng suất trong chăn nuôi lợn có tầm quan trọng chiến lược trong việc thoả mãn nhu cầu thực phẩm, nâng cao thu nhập cho người chăn nuôi .
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay (đặc biệt ở các hộ nuôi lợn cá thể vùng nông thôn) trình độ kỹ thuật chăn nuôi lợn chưa cao, chi phí thức ăn cho một kg tăng trọng còn cao. Người chăn nuôi sử dụng các phụ phẩm và sản phẩm từ trồng trọt cho chăn nuôi lợn đạt hiệu quả chưa cao, do thiếu sự cân bằng các chất dinh dưỡng mà đặc biệt là protein, axit amin. Để khắc phục được điều này, ta cần phải nắm được nhu cầu về các chất dinh dưỡng của lợn. Trên cơ sở đó phối hợp khẩu phần thức ăn nhằm thỏa mãn nhu cầu các chất dinh dưỡng, đặc biệt thoả mãn nhu cầu axit amin, để đảm bảo cho con vật phát huy hết tiềm năng của giống, cho năng suất cao, hạ giá thành sản phẩm.
Để phát huy tiềm năng nhất định của mỗi phẩm giống, cần phải cung cấp đầy đủ một lượng axit amin phù hợp cho việc phát triển mô nạc cơ thể. Trong khẩu phần thức ăn của lợn thường thiếu 3 axit amin quan trọng là Lysin, Methionine, Tryptophan. Cho lợn ăn theo khẩu phần thức ăn được cân đối lysin, methionine và các axit amin thiết yếu thì có thể giảm protein thô trong khẩu phần mà không làm giảm tăng trọng, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng protein trong khẩu phần. Nhu cầu hiệu quả sử dụng Lysine, Methionine ở lợn thịt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, dòng nạc hay mỡ, tuổi, trọng lượng, tính biệt, nhiệt độ môi trường.
Quảng Nam là một tỉnh có ngành chăn nuôi phát triển, trong đó Điện Bàn là một huyện có ngành chăn nuôi phát triển nhất của tỉnh. Trên địa bàn huyện đã hình thành nhiều trang trại chăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp mang tính chất tư nhân, chủ yếu nuôi lợn thịt F1, lợn siêu nạc; loại thức ăn thường sử dụng ở các trang trại là thức ăn công nghiệp, hay sử dụng những thức ăn tự chế biến ở trang trại.
Trại chăn nuôi Tiền Phong là một trại nằm trên mảnh đất huyện Điện Bàn; được thành lập từ năm 1978. Với nguồn nguyên liệu thức ăn sẵn có ở địa phương, trại phát triển chăn nuôi lợn thịt F1 với quy mô vài trăm lợn thịt. Tuy nhiên, việc sử dụng nguyên liệu chủ yếu của địa phương từ các nguồn thức ăn giàu năng lượng như ngô, cám, lúa, khô dầu lạc, khô dầu đậu tương... chưa cân đối axit amin, đặc biệt các axit amin thiết yếu; thức ăn hỗn hợp tự chế biến ở trang trại chưa đảm bảo nhu cầu axit amin cho lợn thịt F1. Vì vậy, tăng trọng của lợn thịt còn thấp, hiệu quả kinh tế mang lại chưa cao.
Để tăng hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn thịt F1, trong điều kiện thức ăn tự chế biến ở trang trại, việc nghiên cứu khẩu phần ăn thích hợp dựa trên tiềm năng thức ăn sẵn có của địa phương có ý nghĩa rất lớn. Do đó, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài :
“Hiệu quả của việc bổ sung chế phẩm axit amin tổng hợp L- Lysine và DL-Methionine trong khẩu phần lợn thịt F1 (MóngCái –Yorkshire) nuôi ở trại Tiền Phong - Điện Bàn -Quảng Nam” .
Chúng tôi thực hiện đề tài này với mục đích :
- Xác định hiệu quả của việc bổ sung axit amin tổng hợp L - Lysine, DL - Methionine trong khẩu phần lợn thịt F1.
- Tăng hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn thịt ở trang trại.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Tổng quan tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới và ở nước ta
2.1.1. Tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới
Nghề chăn nuôi lợn ra đời rất sớm. Cách đây một vạn năm chăn nuôi lợn đã xuất hiện và phát triển ở Châu Âu và Châu Á. Sau đó, khoảng thế kỷ XVI, bắt đầu phát triển ở Châu Mỹ và thế kỷ XVIII phát triển ở Châu Úc. Đến nay nuôi lợn đã trở thành một nghề truyền thống của nhiều quốc gia. Ở nhiều nước, chăn nuôi lợn có công nghệ cao và có tổng đàn lợn lớn như : Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Canada, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển, Đức, Ý, Trung Quốc, Úc, Singapore … Nói chung ở các nước tiên tiến và công nghiệp đều có chăn nuôi lợn phát triển theo hình thức công nghiệp và đạt trình độ chuyên môn hoá cao.
Tuy vậy, đàn lợn trên thế giới phân bố không đồng đều ở các châu lục. Có tới 70% số đầu lợn được nuôi ở Châu Á và Âu, khoảng 30% ở các châu lục khác. Trong đó tỷ lệ đàn lợn được nuôi nhiều ở các nước có chăn nuôi lợn tiên tiến. Nơi nào có nhu cầu thịt lợn cao, nơi đó nuôi nhiều lợn. Tính đến nay ở các nước Châu Âu có khoảng 52%, Châu Á 30,4%, Châu Úc 5,8%, Châu Phi 3,2%, Châu Mỹ 8,6%.
* Sản lượng thịt lợn thế giới :
Tổng sản lượng thịt lợn thế giới năm 2008 dự báo sẽ giảm 3,9%, đạt xấp xỉ 93 triệu tấn. Trung Quốc, nước chiếm khoảng một nửa tổng sản lượng thịt lợn thế giới, dự báo sẽ phục hồi trong 6 tháng cuối năm 2008. Đàn lợn đang phục hồi vững chắc sau một năm thiếu hụt trong cung ứng do bùng phát dịch bệnh tai xanh ở qui mô lớn, do giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, và do đàn lợn nái giảm.
Tổng xuất khẩu thịt lợn thế giới năm 2008 dự báo sẽ giảm 1,8%, đạt 5,156 triệu tấn.
2.1.2. Tình hình chăn nuôi lợn ở Việt Nam
Chăn nuôi lợn là một nghề truyền thống có từ lâu đời ở nước ta. Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành trồng trọt, đặc biệt là sự tăng trưởng nhanh về sản xuất lương thực, nghề chăn nuôi lợn ở nước ta đã phát triển khá tốt, số lượng tổng đàn và chất lượng đàn lợn đều tăng.
Trong những năm qua, đàn lợn trong cả nước có tốc độ tăng trưởng nhanh. Tốc độ tăng trưởng bình quân 4,29%/năm, tổng đàn từ 21,8 triệu con năm 2001 tăng lên 26,9 triệu con năm 2006. Năm 2007, tổng đàn lợn 26,561 triệu con, giảm 1,1% so với năm 2006. Đàn lợn nái năm 2005 đạt 3,88 triệu con, chiếm 14,2% tổng đàn. Trong tổng đàn nái có khoảng 372 ngàn con nái ngoại, chiếm 9,6%; nái lai khoảng 2.990 ngàn con và nái nội khoảng 520 ngàn con. Các tỉnh có tỷ lệ lợn nái ngoại cao là thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, ...
- Dịch lợn "tai xanh" xảy ra trong những tháng đầu năm 2007 tại một loạt các tỉnh thành đã làm sụt giảm tổng đàn lợn của cả nước. Đến nay, tổng đàn lợn thịt đã tăng hơn so với những tháng trước, đạt khoảng 24,5 - 25 triệu con.
- Năng suất và sản lượng thịt: Khối lượng lợn xuất chuồng trung bình cả nước là 63,7 kg/con.
Sản lượng thịt lợn hơi năm 2001 là 1,51 triệu tấn. Năm 2006 là 2,50 triệu tấn, tăng 10,6%/năm. Năm 2007, sản lượng thịt lợn hơi 2,55 triệu tấn tăng 2,0% so với năm 2006. Thịt lợn luôn chiếm từ 76-77% trong tổng sản lượng thịt các loại sản xuất trong nước.
- Cơ cấu giống lợn hiện nay đã được cải thiện tích cực, hầu hết các giống lợn có năng suất và chất lượng cao trên thế giới đã được nhập vào nước ta như Landrace, Yorkshire, Pietrain, Duroc.
- Khối lượng thịt sản xuất/nái/năm hiện nay còn thấp, 2005 sản lượng thịt sản xuất trung bình đạt 589 kg/nái, trong khi đó các nước có trình độ chăn nuôi lợn tiên tiến là 1800 – 1900 kg/nái/năm.
- Số lượng lợn thịt/nái/năm bình quân cả nước chưa cao, năm 2005 bình quân đạt 9,3 con/nái, trong khi đó các nước có trình độ chăn nuôi lợn tiên tiến là 18 – 22 con/nái/năm.
- Chăn nuôi lợn trang trại, công nghiệp ngày càng phát triển. Sản xuất và nhân giống lợn bằng thụ tinh nhân tạo đang được nhân rộng ở nhiều địa phương.
- Hằng năm nước ta xuất khẩu được một khối lượng sản phẩm hạn chế. Từ năm 2001 đến 2005, bình quân mỗi năm xuất khẩu được từ 18 – 20 ngàn tấn/năm, khoảng 1 – 3% tổng sản lượng thịt sản xuất trong nước, riêng 2001 đạt đỉnh cao là 30 ngàn tấn chiếm 2,8% số thịt sản xuất ra. Ba mặt hàng thịt lợn xuất khẩu là lợn sữa, lợn mảnh và lợn choai, trong đó sản phẩm lợn choai có tỷ lệ nạc cao 50 - 55% đã có nhiều thuận lợi hơn về thị trường và giá cả xuất khẩu.
- Việc xuất khẩu thịt lợn nhìn chung còn ít về số lượng và bị cạnh tranh về giá cả rất gay gắt với thịt lợn của Braxin và Trung Quốc. Mặc dù ở gần một số thị trường tiêu thụ chính như Trung Quốc, Nga, Hồng Kông, Nhật Bản... nhưng sản xuất và xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam vẫn chưa có được sức cạnh tranh bởi các nguyên nhân như con giống chưa tốt, chăn nuôi chủ yếu là quảng canh và phân tán nên các hộ gia đình không có điều kiện để áp dụng rộng rãi các loại giống mới và các kỹ thuật chăn nuôi hiện đại. Thức ăn thường chiếm 65-70% giá thành sản xuất 1 kg thịt lợn hơi. Nhưng nguồn nguyên liệu để chế biến thức ăn gia súc ở trong nước còn thiếu, hàng năm vẫn phải nhập khẩu nhiều loại và giá cả còn cao hơn quốc tế 20-30% nên việc sản xuất trong nước các loại thức ăn gia súc nói chung và cho chăn nuôi lợn nói riêng còn bị động, ảnh hưởng đến chất lượng và giá thành sản phẩm thịt lợn.
2.1.3. Định hướng phát triển chăn nuôi lợn (2006 – 2010)
+ Đẩy mạnh chăn nuôi lợn theo hướng tập trung, công nghiệp, hàng hoá bảo đảm an toàn dịch bệnh và có sức cạnh tranh cao trên thị trường, quy hoạch chăn nuôi lợn ngoại tại các vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Đồng Bằng Sông Hồng, Nam Trung Bộ và một số tỉnh ở Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, Đồng Bằng Sông Cửu Long.
+ Hình thành một số vùng chăn nuôi lợn đặc sản ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Bắc.
+ Thay thế và nâng dần tỷ lệ nái lai, nái ngoại; giảm dần đàn nái địa phương.
+ Phát triển các cơ sở giống ông bà, bố mẹ lợn ngoại.
+ Củng cố và xây dựng mới một số trạm thụ tinh nhân tạo.
+ Phấn đấu mỗi tỉnh có ít nhất 2 – 3 cơ sở nuôi lợn đực ngoại khai thác tinh phục vụ thụ tinh nhân tạo.
2.2. Vai trò, chức năng của protein đối với cơ thể động vật
Protein là hợp chất hữu cơ có khối lượng phân tử cao được cấu tạo từ các nguyên tố chính là cacbon, hydro, oxy và nitơ. Ngoài ra còn có lưu huỳnh, photpho, sắt.
Protein giữ vị trí quan trọng trong các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể động vật và có vai trò quan trọng đối với cơ thể: Trong cơ thể, protein đóng vai trò là chất tạo hình. Nhiều protein giữ vai trò làm khung và giá đỡ cho tế bào cơ thể sống, tham gia vào sự hình thành các mô bào, dịch mô. Ngoài ra, nó còn tham gia cấu tạo nên các enzym, cấu tạo nên các chất kháng thể đặc hiệu và không đặc hiệu,… Protein còn thực hiện chức năng dự trữ và vận chuyển. Một số protein có chức năng điều hoà quá trình truyền thông tin di truyền, điều hoà quá trình trao đổi chất. Các phân tử tham gia cấu tạo hormon có thể làm tăng cường hoặc kìm hãm hoạt động của các enzym như adrenalin, insulin. Bên cạnh đó, nhiều protein trực tiếp tham gia trong quá trình chuyển động như co cơ, chuyển vị trí các nhiễm sắc thể trong quá trình phân bào. Protein cũng chuyển hoá thành các chất khác cung cấp cho cơ thể. Protein còn thực hiện chức năng bảo vệ. Ngoài ra nó còn là nguồn cung cấp năng lượng cho các hoạt động cơ thể.
Do protein có vai trò quan trọng như vậy nên việc thừa hay thiếu đều ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn. Khi trong khẩu phần thức ăn không cung cấp đủ protein thì cơ thể vật nuôi sẽ bị rối loạn trao đổi chất, giảm cân bằng nitơ, giảm tính ngon miệng và gây nên hiện tượng tích luỹ mỡ ở gan.
Ngược lại, khi protein thừa trong khẩu phần cũng gây nên những tác động xấu như khi dư thừa protein trong khẩu phần, dẫn đến nồng độ axit amin trong máu tăng cao làm giảm tính thèm ăn của con vật, không cải thiện tăng trọng, thậm chí giảm sự tăng trọng so với khẩu phần bình thường. Đồng thời cơ thể tiêu hoá không hết protein gây ra sự lên men thối ở ruột già, manh tràng có thể dẫn đến tình trạng tiêu chảy.
2.3. Axit Amin
2.3.1. Khái niệm và phân loại
Axit amin là những dẫn xuất của axit hữu cơ mà trong thành phần của nó có 2 nhóm cacboxyl (-COOH) và amin (-NH2) đính ở nhóm Cα. Nó có công thức chung là :
R - Cα H - COOH
NH2
Hiện nay, trong các sản phẩm sinh học người ta đã phát hiện có trên 100 loại axit amin, trong đó có 20 - 22 axit amin quan trọng trong dinh dưỡng động vật (Vũ Duy Giảng, 1999, [6]). Dựa vào cấu trúc lạp thể người ta phân thành 2 dạn