Hội nhập WTO của Việt Nam dưới góc độ của Quy luật Lượng đổi - Chất đổi

Triết học Mác ra đời từ thế kỷ XIX đã chỉ ra rằng thế giới vật chất không chỉ tồn tại trong sự thống nhất đa dạng của các sự vật hiện tượng mà còn trong sự vận động và phát triển không ngừng theo những quy luật vốn có của nó. Thế giới vật chất như một chỉnh thể thống nhất, trong đó các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới vừa tách biệt nhau vừa có sự quan hệ qua lại thâm nhập chuyển hóa lẫn nhau. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại cho biết phương thức vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự liên hệ, tác động qua lại làm cho các sự vật vận động và phát triển không ngừng. Phát triển theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất. Đây là nội dung quan trọng của quy luật sự chuyển hóa về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại – một trong những vấn đề cơ bản của phép biện chứng duy vật - triết học Mác. Quá trình hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại trên bình diện toàn cầu đang diễn ra nhanh chóng và trở thành xu hướng tất yếu của thế giới đương đại. Quá trình này mà đặc biệt hơn là quá trình hội nhập WTO chính là biểu hiện rõ nét trong việc vận dụng Quy luật “những sự chuyển hóa về lượng dẫn đến những thay đổi về chất” của Đảng và nhà nước ta trong thời gian qua. Với những kiến thức nghiên cứu được, cùng với sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giảng viên và nhà trường, trong bài viết này, tôi xin tập trung nghiên cứu những vấn đề xung quanh Quy luật lượng đổi – chất đổi và sự vận dụng Quy luật này trong quá trình nước ta hội nhập WTO. Đề tài có tên gọi: “HỘI NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUY LUẬT LƯỢNG ĐỔI- CHẤT ĐỔI”. Đây là một đề tài có tính lý luận và thực tiễn cao, đòi hỏi khả năng nắm bắt sâu sắc về những quan điểm của triết học Mác - Lê Nin cũng như những kiến thức, tư liệu về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và quá trình hội nhập WTO nói riêng của nước ta. Vì thế, với khả năng có hạn cùng những hạn chế nhất định về quỹ thời gian và điều kiện học tập, đề tài không sao tránh khỏi những nhược điểm, thiếu sót. Người viết kính mong được sự chân thành góp ý, bổ sung từ phía người đọc. Đề tài gồm 3 phần : Phần thứ nhất :Những lý luận chung về quy luật lượng đổi–chất đổi Phần thứ hai :Quá trình hội nhập WTO của nước ta nhìn từ quy luật lượng đổi–chất đổi Phần thứ ba :Kết luận

doc27 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3237 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hội nhập WTO của Việt Nam dưới góc độ của Quy luật Lượng đổi - Chất đổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỘI NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUY LUẬT LƯỢNG ĐỔI -CHẤT ĐỔI. LỜI NÓI ĐẦU Triết học Mác ra đời từ thế kỷ XIX đã chỉ ra rằng thế giới vật chất không chỉ tồn tại trong sự thống nhất đa dạng của các sự vật hiện tượng mà còn trong sự vận động và phát triển không ngừng theo những quy luật vốn có của nó. Thế giới vật chất như một chỉnh thể thống nhất, trong đó các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới vừa tách biệt nhau vừa có sự quan hệ qua lại thâm nhập chuyển hóa lẫn nhau. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại cho biết phương thức vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự liên hệ, tác động qua lại làm cho các sự vật vận động và phát triển không ngừng. Phát triển theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất. Đây là nội dung quan trọng của quy luật sự chuyển hóa về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại – một trong những vấn đề cơ bản của phép biện chứng duy vật - triết học Mác. Quá trình hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại trên bình diện toàn cầu đang diễn ra nhanh chóng và trở thành xu hướng tất yếu của thế giới đương đại. Quá trình này mà đặc biệt hơn là quá trình hội nhập WTO chính là biểu hiện rõ nét trong việc vận dụng Quy luật “những sự chuyển hóa về lượng dẫn đến những thay đổi về chất” của Đảng và nhà nước ta trong thời gian qua. Với những kiến thức nghiên cứu được, cùng với sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giảng viên và nhà trường, trong bài viết này, tôi xin tập trung nghiên cứu những vấn đề xung quanh Quy luật lượng đổi – chất đổi và sự vận dụng Quy luật này trong quá trình nước ta hội nhập WTO. Đề tài có tên gọi: “HỘI NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUY LUẬT LƯỢNG ĐỔI- CHẤT ĐỔI”. Đây là một đề tài có tính lý luận và thực tiễn cao, đòi hỏi khả năng nắm bắt sâu sắc về những quan điểm của triết học Mác - Lê Nin cũng như những kiến thức, tư liệu về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và quá trình hội nhập WTO nói riêng của nước ta. Vì thế, với khả năng có hạn cùng những hạn chế nhất định về quỹ thời gian và điều kiện học tập, đề tài không sao tránh khỏi những nhược điểm, thiếu sót. Người viết kính mong được sự chân thành góp ý, bổ sung từ phía người đọc. Đề tài gồm 3 phần : Phần thứ nhất :Những lý luận chung về quy luật lượng đổi–chất đổi Phần thứ hai :Quá trình hội nhập WTO của nước ta nhìn từ quy luật lượng đổi–chất đổi Phần thứ ba :Kết luận Người viết một lần nữa xin cảm ơn các thầy cô giảng viên bộ môn Triết Học – Khoa sau Đại Học - trường đại học Kinh Tế Luật TPHCM đã tận tình giúp đỡ trong quá trình thực hiện đề tài này. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 12 năm 2010 NGƯỜI THỰC HIỆN ĐẶNG MINH SANG PHẦN I NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT LƯỢNG ĐỔI-CHẤT ĐỔI 1. Quan niệm biện chứng về chất và lượng 1.1 Quan niệm về chất và lượng của các nhà triết học cổ 1.1.1. Arixtốt : Nhà triết học cổ đại Arixtốt là người đầu tiên đưa ra quan niệm chất và lượng với tư cách là các phạm trù triết học. Ông xem chất là tất cả những gì làm cho sự vật là nó. Là những cái gì có thể phân ra thành những bộ phận cấu thành. Ông phân lượng của sự vật thành hai loại: số lượng và đại lượng.Ngoài ra, ông cũng là người đầu tiên tiến tới giải quyết vấn đề quan trọng  đó là vấn đề tính nhiều chất của sự vật. Từ đó, ông phân biệt sự khác nhau về hình thức với chất căn bản của sự vật – cái sẽ xuất hiện hay mất đi cùng với sự xuất hiện hay mất đi của bản thân sự vật; ông cũng đạt được bước tiến đáng kể trong việc nghiên cứu phạm trù độ, xem độ là cái thống nhất, cái không thể phân chia giữa chất và lượng. 1.1.2. Hêghen : Quan niệm về lượng và chất của sự vật, hiện tượng đã có bước tiến đáng kế trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học Hêghen. Hêghen đã phân tích một cách tỉ mỉ sự thống nhất biện chứng, mối quan hệ qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa lượng và chất, xem xét chất và lượng nằm trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Với quan điểm biện chứng, Hêghen đã xem xét từ chất thuần tuý  đến chất được xác định ; chất phát triển đến tột độ thì ra đời lượng; lượng cũng không ngừng tiến hoá, số lượng là đỉnh cao nhất trong sự tiến hoá. Trong việc xem xét mối quan hệ giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất, Hêghen đặc biệt chú ý tới phạm trù bước nhảy. Chính dựa trên tư tưởng của Hêghen, Lênin đã rút ra một kết luận quan trọng là : Việc thừa nhận bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo quan điểm biện chứng hay siêu hình về sự phát triển. Tất nhiên, với tư cách là nhà triết học duy tâm, Hêghen đã xem các phạm trù chất, lượng, độ chỉ như những nấc thang tự phát triển của tinh thần, của ‘‘ý niệm tuyệt đối’’chứ không phải là những nấc thang nhận thức của con người đối với thế giới bên ngoài. 1.2. Quan niệm biện chứng duy vật về chất và lượng 1.2.1 Quan niệm biện chứng duy vật về chất Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm ra nó và do đó nó khác với cái khác. Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác. Ví dụ : Khi cho đường vào nước ta thấy đường có tính tan, khi nếm ta biết đường có vị ngọt. Vậy tính tan, vị ngọt .. là thuộc tính của đường. Tất cả những thuộc tính của đường là những cái vốn có của đường, nhưng chúng chỉ bộc lộ ra trong quan hệ của đường với nước hay trong quan hệ của đường với vị giác của con người. Đặc trưng khách quan nói trên quy định phương thức nhận thức của con người đối với vật chất của sự vật, để nhận thức được những thuộc tính, chúng ta cần nhận thức nó trong mối quan hệ giữa các sự vật. Trong mối quan hệ cụ thể thường bộc lộ ra một thuộc tính (một khía cạnh về chất) của sự vật. Do vậy, để nhận thức được chất với tư cách là sự tổng hợp của tất cả các thuộc tính vốn có của sự vật đó, chúng ta phải nhân thức sự vật trong tổng hòa các mối quan hệ có thể có giữa sự vật đó với các sự vật khác. Mỗi sự vật có vô vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật lại có một tổng hợp những đặc trưng về chất của mình, nên khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất. Điều đó cũng có nghĩa, mỗi sự vật có vô vàn chất. Cho nên khi diễn đạt tính không thể tách rời giữa chất và sự vật cũng như tính nhiều chất của nó, Ăngghen đã viết : ‘‘những chất lượng không tồn tại, mà những sự vật có chất lượng, hơn nữa, những sự vật có vô vàn chất lượng, mới tồn tại ’’1. Với tư cách là những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các mối quan hệ, các thuộc tính của sự vật cũng có vị trí khác nhau tạo thành những thuộc tính cơ bản và những thuộc tính không cơ bản. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của sự vật. Ở mỗi sự vật chỉ có một chất cơ bản, đó là tổng hợp những thuộc tính đặc trưng cho sự vật trong toàn bộ quá trình tồn tại của sự vật; đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật. Ví dụ : trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư tư liệu sản xuất, chất cơ bản của nền kinh tế tư bản tư nhân là sản xuất chạy theo giá trị thặng dư. Khi đặc trưng đó mất đi, nền kinh tế cũng không còn là kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chất của sự vật không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành, mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó. Trong tự nhiên và cả trong xã hội, chúng ta thấy không ít sự vật, mà xét riêng về các yếu tố cấu thành, chúng hoàn toàn đồng nhất, nhưng các sự vật đó lại khác nhau về chất. Ví dụ : kim cương và than chì là những sự vật đều do cácbon tạo thành. Nhưng kim cương là vật cứng, có thể cắt được hầu hết mọi kim loại, có giá trị kinh tế cao, còn than thì không có được những đặc trưng tương tự. Sự khác nhau đó được quyết định bởi phương thức liên kết khác nhau của các nguyên tử cácbon. Chất của sự vật không chỉ thay đổi khi có sự thay đổi những yếu tố cấu thành mà nó còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. Do vậy, để làm biến đổi chất của sự vật, chúng ta có thể cải tạo các yếu tố cấu thành, hoặc biến đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. 1.2.2. Quan niệm biện chứng duy vật về lượng Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, nó biểu thị số lượng các thuộc tính, tống số các bộ phận, các đại lượng, trình độ, quy mô, nhịp điệu của sự vận động và phát triển Những đặc trưng về lượng cũng mang tính khách quan vốn có của sự vật : chúng cũng là những đặc trưng giúp ta phân biệt được sự vật này với sự vật khác. Những đặc trưng về lượng cũng được biểu hiện trong những mối quan hệ nhất định. Nhưng, khác với những mối quan hệ là phương thức bộc lộ các thuộc tính về chất, những mối quan hệ nhờ đó những thuộc tính về lượng bộc lộ ra, mang tính xác định, chặt chẽ, nghiêm ngặt hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trong thực tế có những thuộc tính về lượng của sự vật không thể biểu thị một cách chính xác bằng số lượng hay đại lượng. Ví dụ : trình độ giác ngộ cách mạng, phẩm chất, tư cách, đạo đức của một con người… Trong những trường hợp như thế, để có tri thức đúng đắn về lượng, đòi hỏi phải có sự trừu tượng hoá rất cao với một phương pháp luận khoa học. Không chỉ chất, mà cả các thuộc tính về chất cũng có tính quy định về lượng. Do vậy, một sự vật cũng có vô vàn lượng. Chất và lượng là hai mặt không thể tách rời nhau trong sự vật. Trong quá trình vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật không đứng im. Chúng luôn vận động không phải biệt lập với nhau mà luôn luôn có quan hệ qua lại theo một quy luật nhất định. 2. Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đồi về chất. Lượng có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Ở thời điểm này sự vật vẫn còn là nó mà chưa thành cái khác. Ví dụ : khi xét các trạng thái khác nhau của nước trong khoảng nhiệt độ từ 0 độ C đến 100 độ C, bản chất của nước vẫn không thay đổi (xét về cấu tạo chất ). Như vậy, không phải bất kỳ một sự thay đổi về lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Khuôn khổ, mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật, được gọi là độ. Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là một khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Những giới hạn mà khi lượng đạt tới đó sẽ làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là điểm nút. Trong ví dụ trên, nếu coi trạng thái của nước là chất thì 0 độ C và 100 độ C là điểm nút. Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ ra đời chất mới với lượng mới tương ứng của nó. Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với những điểm nút mới. Sự vận động và phát triển là không cùng. Do đó, sự vận động, biến đổi của sự vật sẽ hình thành một đường nút của những quan hệ về độ. Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra được gọi là bước nhảy : Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời kỳ chuyển hóa chất của sự vật do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra, là quá trình trực tiếp chuyển từ chất này sang chất khác một cách căn bản. Thế giới là muôn hình muôn vẻ, nên sự thay đổi về chất cũng hết sức đa dạng với nhiều hình thức khác nhau. Tính chất của các bước nhảy được quyết định trước bết bởi tính chất của bản thân sự vật, bởi những mâu thuẫn vốn có. Với những sự vật có tính chất khác nhau và với những mâu thuẫn khác nhau sẽ có những bước nhảy khác nhau. Chẳng hạn, bước nhảy trong tự nhiên dẫn tới sự ra đời của những loài động vật, thực vật mới phải trải qua hàng ngàn năm hoặc nhiều hơn. Nhưng cũng trong tự nhiên, chúng ta vẫn quan sát thấy cả những quá trình thay đổi về chất diễn ra một cách nhanh chóng. Ví dụ : hiện tượng phóng xạ trong tự nhiên của một số nguyên tố hoá học… Tính đa dạng trong hình thức thay đổi về chất còn được quy định bởi điều kiện trong đó diễn ra sự thay đổi về chất. Chẳng hạn, cũng là vấn đề thay đổi quyền lực chính trị trong quá trình phát triển xã hội,nhưng tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử – cụ thể mà sự thay đổi đó có thể diễn ra bằng con đường hoà bình hoặc bạo lực cách mạng. Khi diễn ra theo con đường thứ 2, bước nhảy được thực hiện trong khoảng thời gian tương đối ngắn. Trong thực tế, sự thay đổi về chất thông qua các bước nhảy hết sức đa dạng và phong phú. Nhìn chung, các bước nhảy thể hiện qua một số cách cơ bản sau: Bước nhảy đột biến và bước nhảy diễn ra một cách dần dần : Sự phân chia như vậy được dựa trên không chỉ thời gian của sự thay đổi về chất, mà còn dựa trên cả tính chất của bản thân sự thay đổi đó. Những bước nhảy đột biến, khi chất của sự vật được biến đổi một các nhanh chóng. Chẳng hạn, sự chuyển hoá của các hạt cơ bản…Những bước nhảy được thực hiện một cách dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ. Chẳng hạn, quá trình chuyển hoá từ vượn người thành người… Như vậy, sự khác nhau giữa hai loại bước nhảy vừa nêu không chỉ ở thời gian diễn ra sự thay đổi về chất, và cả ở cơ chế của sự thay đổi đó. Khi nói về bước nhảy dần dần, ngoài nhân tố tốc độ, chúng ta còn nói đến cơ chế của việc tạo ra chất mới. Ở đây, chất mới được tạo thành không phải ngay lập tức, mà được tạo thành từng phần. Mặt khác, cũng cần phân biệt bước nhảy dần dần với sự thay đổi dần dần về lượng. Nhưng sự thay đổi dần dần về lượng diễn ra một cách liên tục trong khuôn khổ của chất đang có; còn bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa chất này sang chất khác, là sự đứt đoạn của tính liên tục, là bước ngoặc quyết định trong sự phát triển. Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ Bước nhảy toàn bộ là loại bước nhảy làm thay đổi về chất ở tất cả các mặt, các bộ phận, các nhân tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là loại bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số nhân tố, một số bộ phận của sự vật đó. Đối với các sự vật phức tạp về tính chất, về những nhân tố cấu trúc, về những bộ phận cấu thành.. bước nhảy thường diễn ra bằng con đường từ những thay đổi về chất cục bộ đến thay đổi về chất toàn bộ. Từ những phân tích trên, có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật chuyển dần từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại như sau: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng. Vì vậy để có tri thức tương đối đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó. Con đường nhận thức đó sẽ diễn ra như sau: từ những nhận thức ban đầu về chất đi tới nhận thức lượng, trong quá trình đó, tri thức về chất được làm sâu sắc thêm, khi đạt đến tri thức về sự thống nhất giữa chất và lượng chúng ta sẽ có tri thức tương đối hoàn chỉnh về sự vật đó. Vì sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nên trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên việc hiểu đúng đắn vị trí vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay đổi nói trên. Trong sự phát triển xã hội, phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng. Xem xét tiến hóa và cách mạng trong mối quan hệ biện chứng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng. Hiểu đúng đắn mối quan hệ đó là cơ sở để chống lại chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại hữu khuynh cũng như chủ nghĩa tả khuynh. Việc nắm vững nội dung của quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề trong công cuộc đổi mới mà đặc biệt là công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Việc thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội mà đặc biệt là quá trình hội nhập sẽ tạo ra bước nhảy về chất tạo điều kiện để thực hiện thành công quá trình đổi mới nhằm tạo ra bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nói chung và bước nhảy về chất của quá trình hội nhập nói riêng. Như bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong quá trình hội nhậphiện nay cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng thích hợp. Ở đây bất kỳ sự nôn nóng, chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra tổn thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi mới đất nước. PHẦN II HỘI NHẬP WTO CỦA NƯỚC TA NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUY LUẬT LƯỢNG ĐỔI-CHẤT ĐỔI. Quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại đã chỉ ra rằng : Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng. Kế thừa quy luật này Đảng và nhà nước ta nhất quán trong đường lối, chủ trương, và quá trình thực hiện để đưa nước ta hội nhập vào kinh tế quốc tế đặc biệt là tổ chức thương mại thế giới WTO. “Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ; nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn.”2 ( Trích văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X) 1. Giới thiệu về WTO : Ngày 07 tháng 11 năm 2006,  sau gần 12 năm đàm phán, tại Phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào WTO. Đây là một thành công to lớn, là sự kiện trọng đại của lịch sử thương mại và ngoại giao của Việt Nam, là một cột mốc quan trọng của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế..  WTO là tổ chức thương mại quy mô toàn cầu, được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 1995, ‘‘hiện có 153 thành viên (Việt Nam là thành viên thứ 150)’’3.Tiền thân của WTO là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), được 23 quốc gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao lưu thương mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi nước thành viên. Trong lịch sử gần 50 năm của mình, GATT đã tổ chức được 8 vòng đàm phán đa phương về thương mại. Vòng thứ 8 diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994 tại Marrakesh thủ đô của Marocco (còn gọi là Vòng đàm phán Uruguay và Hiệp định thành lập WTO còn gọi là Hiệp định Marrakesh) nội dung là cải tổ GATT để lập ra một định chế thương mại toàn cầu mới có tên là Tổ chức Thương mại thế giới, viết tắt là WTO.  1.1. Cơ cấu tổ chức của WTO 1.1.1. Cơ cấu tổ chức WTO là một tổ chức hoàn chỉnh, bao gồm các cơ quan có thẩm quyền như: - Hội nghị Bộ trưởng. - Đại Hội đồng. - Các Ủy ban chức năng và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Các Ủy ban chức năng thông thường gồm các đại sứ và trưởng phái đoàn ở Geneva nhưng đôi khi các viên chức cũng được gửi tới từ thủ đô của các quốc gia thành viên; Ủy ban Chức năng họp vài lần một năm ở Hội sở của WTO tại Geneva (Thụy Sĩ ) là cơ quan lo về xem xét chính sách. Ủy ban Giải quyết tranh chấp cũng họp với lịch trình tương tự. - Các Ban hàng hóa, Ban dịch vụ và Ban sở hữu trí tuệ. Các ban này báo cáo công tác cho các Ủy ban chức năng. Ngoài ra còn có một số lượng các tiểu ban đặc biệt, nhóm công tác và các thành viên xử lý các hiệp ước ký riêng giữa các thành viên cá thể và các khu vực khác nhau như môi trường, phát triển, xử lý đơn gia nhập và các hiệp ước thương mại khu vực. - Cơ quan đảm nhiệm chức năng hành chính – thư ký là Ban Thư ký với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng thư ký. 1.2.2. Trụ sở WTO Trụ sở đặt tại Geneva, Thụy Sỹ. Các Thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông qua phái đoàn đại diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng (họp ít nhất 2 năm một lần) hoặc tại các cuộc họp của Đại hội đồng (cấp đại sứ, họp thường xuyên tại Geneva). Mỗi thành viên WTO có một phiếu biểu quyết, không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên l
Luận văn liên quan