Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản cấu thành nên hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam. Nguyên tắc này luôn được coi trọng và được nghi nhận trong bốn bản Hiến pháp của nước ta qua các thời ký lịch sử khác nhau của đất nước. Đến nay, nguyên tắc này đã trở thành một nguyên tắc tối thượng trong tổ chức và hoạt động của TA nói chung và hoạt động trong xét xử các vụ án dân sự nói riêng. Để hiểu rõ về vấn đề này em xin đi vào cụ thể quy định cuả pháp luật về vấn đề này.
9 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2984 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khái quát một số vấn đề về nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI LÀM
I.ỜI MỞ ĐẦU
Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản cấu thành nên hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam. Nguyên tắc này luôn được coi trọng và được nghi nhận trong bốn bản Hiến pháp của nước ta qua các thời ký lịch sử khác nhau của đất nước. Đến nay, nguyên tắc này đã trở thành một nguyên tắc tối thượng trong tổ chức và hoạt động của TA nói chung và hoạt động trong xét xử các vụ án dân sự nói riêng. Để hiểu rõ về vấn đề này em xin đi vào cụ thể quy định cuả pháp luật về vấn đề này.
II.KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1.Khái niệm về nguyên tắc Thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
“Nguyên tắc Thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS Việt Nam thể hiện tư tưởng pháp lý khi xét xử các vụ án dân sự TP và HTND tự mình quyết định và tự chịu trách nhiệm về bản án và quyết định của mình mà không bị phụ thuộc vào quan điểm , ý kiến cảu bất kỳ cá nhân, cơ quan tổ chức nào, không bị chi phối bởi ý kiến của nhau và chỉ căn cứ vào các quy định của pháp luật để xem xét và quyết định về từng vấn đề của vụ án”.
2.2 Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, nguyên tắc TP và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nền tảng cảu tư pháp trong Nhà nước pháp quyền. Đây là công thức pháp lý chứa đựng các giá trị được thừa nhận chung trong nhà nước pháp quyền đối với không chỉ trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự mà cả trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Tư pháp có độc lập mới đảm bảo được tính tối cao của Hiến Pháp và pháp luật, có khả năng kiểm soát và giới hạn quyền lực, cũng như bảo đảm quyền con người. Xuất phát từ vai trò đặc biệt quan trọng của tính độc lập của Tư pháp nên hầu hết các cuộc cải cách tư pháp ngay nay đều tập trung vào việc nâng cao tính độc lập của Tư pháp trong hoạt động cảu xét xử.
Thứ hai, thực hiện nguyên tắc TP và HTND cét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật góp phần bảo đảm và nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự của Tòa án. Đồng thời khẳng định được vị trí, vai trò và trách nhiệm của TP và HTND trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự.
Thứ ba, thực hiện nguyên tắc này góp pần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân và ổn định các quan hệ kinh tế- xã hội trong giao lưu dân sự. Có thể nói mục đích của việc thực hiện quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền là nhằm thực thi công lý và bảo vệ quyền con người.
III. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
3.1 Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập
3.1.1 Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với các yếu tố bên ngoài
Theo phương diện độc lập với các yêu tố bên ngoài thì khi xét xử TP và HTND độc lập với VKS, với TA các cấp, độc lập với các cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân khác. Tuy nhiên, trong hoạt động xét xử của TA được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sẹ giám sát tối cao của Quốc hội- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
3.1.1.1 khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với viên kiểm sát
Hoạt động kiểm sát xét xử cảu VKS với yêu cầu đảm bảo nguyên tắc “ TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuan theo pháp luật” . Muốn làm rõ vấn đề này qua đó khẳng định vị trí của VKS trong TTDS, trước hết phải nhận thức đúng đắn về nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuan theo pháp luật.
BL TTDS năm 2004 xác định trách nhiệm của VKS tham gia ở trong phiên tòa nhân dân sự căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Điều 21 BL TTDS năm 2004 quy định như sau: “1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án.” Theo quy định này thì VKS có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS, VKS không tham gia tất cả các phiên tòa giải quyết vụ án dân sự mà chỉ được tham gia vào các phiên tòa đối với những vụ án do TA thu thập chứng cứ mà đương sự có yêu cầu, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết cảu TA và các vụ việc dân sự mà VKS kháng nghị bản án, quyết định của TA.Tuy nhiên Luật sửa đổi, bổ sung một số điều cảu BL TTDS đã tăng thẩm quyền cho VKS. Theo đó, VKS còn tham gia vào các phiên tòa sơ thẩm đối với cả những vụ án mà đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Ngoài ra VKS còn tham gia vào phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm.
3.1.1.2 Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với Tòa án các cấp
Sự độc lập của TP và HTND trong xét xử còn được thể hiện trong mối quan hệ giữa các cấp xét xử. Ở nước ta hiện nay, việc xét xử các vụ án dân sự được thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm. Đây cũng là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS được quy định tại điều 17 BL TTDS. Theo đó, các bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự cuả TA cấp sơ thẩm khi ban hành sẽ chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà được trù liệu một thời hạn nhất định để các đương sự kháng cáo và Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo và kháng nghị phúc thẩm tại điều 245 và 253 BLTTDS. Khi vụ án được xét xử theo trình tự phúc thẩm, theo Điều 263 BL TTDS về phạm vi xét xử phúc thẩm thì TA cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến phần có kháng cáo kháng nghị. Khi xét xử lại vụ án, HĐXX phúc thẩm hoàn toàn độc lập với những nhận định của TA cấp sơ thẩm về nội dung của vụ án. HĐXX phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho TA cấp sơ thẩm xem xét lại vụ án. Để đảm bảo sự độc lập của TA cấp sơ thẩm và những lý do hủy bản án, quyết định sơ thẩm mà không có yêu cầu của TA cấp dưới công nhân hay bac bỏ những chứng cứ nào trong quá trình xét xử lại vụ án, cũng như không có quyền yêu cầu TA cấp dưới xét xử theo những nhận định của mình, không được quyết định trước những điều luật nào TA cấp dưới phải áp dụng giải quyết vụ án. TA cấp sơ thẩm khi xét xử lại vụ án thì vẫn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
3.1.1.3 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập trong mỗi quan hệ với nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội
Trước hết cần phải khẳng định việc quy định nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong TTDS không hề mâu thuẫn với nguyên tắc được quy định tại Điều 4 Hiến pháp năm 1992 về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với những hoạt động của các cơ quan Nhà nước và của toàn xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp nói chung , TA nói riêng là vấn đề có tính nguyên tắc hiến định. Sự lãnh đạo của Đảng không mâu thuẫn hoặc ảnh hưởng tới tính độc lập của TA bởi Đảng lãnh đạo TA thông qua đường lối, chủ trương, chính sách về công tác tư pháp nói chung chứ Đảng không làm thay công việc của TA. Nội dung lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo về chính trị, tư tưởng, định hướng về công tác và tổ chức cán bộ. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống TAND nhằm bảo đảm đường hướng chính trị cảu Đảng nhưng đồng thời không làm ảnh hưởng đến tính độc lập trong hoạt động xét xử của TA.
Mối quan hệ giữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo với nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong TTDS còn được thể hiện ở việc các tổ chức Đảng ở địa phương tham gia vào quá trình tuyển chọn và bổ nhiệm TP. Vậy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam về nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến tính độc lập của TA và HTND. Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mỗi quan hệ với cấp ủy Đảng thể hiện ở việc Đảng lãnh đạo chặt chẽ cơ quan tư pháp về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ nhưng Đảng không can thiệp vào hoạt động xét xử tùng vụ án cụ thể của TA.
3.1.1.4 . Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân và dư luận xã hội
Sự độc lập trong hoạt động xét xử là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất trong Nhà nước pháp quyền. Mức độ độc lập trong hoạt động xét xử thể hiện sức mạnh không chỉ của Tư pháp mà còn thể hiện uy tín và sức mạnh của Bộ máy Nhà nước, của Hệ thống chính trị, mức độ dân chủ hóa đời sống xã hội. Trong hệ thống các cơ quan của Bộ máy Nhà nước thì TA là cơ quan được tỏ chức và thành lập để thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, Xét xử là chức năng riêng của TA, là khâu trung tâm của hoạt động Tư pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án không một cơ quan Nhà nước nào được can thiệp vào việc thực hiện nhiệm vụ cảu TP và HTND. Về phần mình TP và HTND thực hiện chức năng của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Trong quá trình xét xử TA và HTND không chỉ độc lập với các cơ quan Nhà nước mà còn độc lập với các bên đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sư và những người tham gia tố tụng khác . Tuy nhiên xuất phát từ tính chất quan hệ dân sự là dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, TA luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Khi giải quyết các vụ án dân sự, TP đóng vai trò trung lập, đững giữa và không phụ thuộc vào các bên đương sự. Trước khi mở phiên tòa , TA phải tiến hành hòa giải , tạo điều kiện cho các đương sự được thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Trong quá tình hòa giả TA luôn giữ vai trò chủ động tạo điều kiện cho các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa , HĐXX không chỉ căn cứ vào những tài liệu, chững cứ có trong hồ sơ vụ án mà phải xác định lại chúng, đồng thời làm rõ thêm những tình tiết bằng cách nghe các ben đương sự và những người tham gia tố tụng khác trình bày ý kiến. Như vậy, trong TTDS, các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng TA vẫn giữ vai trò chủ động, độc lập trong việc xem xét các yêu cầu của đương sự. Các bên đương sự luôn bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ tố tụn, TA có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp do pháp luật quy định để đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên đương sự.
Trong quá trình xét xử TP và HTND còn độc lập với cơ quan báo chí và dư luận xã hội. Điều 5 BL TTDS quy định: “ Việc xét xử các vụ án dân sự được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do bộ luật nầy quy định” là nhằm đảm bảo cho nhân dân tham gia giám sát hoạt động xét xử của TA và thống qua đó để tuyên truyền, giáo dục pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân. Thực tiễn cho thấy, hoạt động xét xử các vụ án dân sự của TA ngày càng thu hút sự quan tâm , chú ý của cơ quan báo chí và dư luận xã hội, đặc biệt là những án quan trọng và phức tạp, kéo dài thì không tránh khỏi sự đưa tin của báo chí và phản ứng của dư luận xã hội. Do đó, những ý kiến mà họ đưa ra có thể đúng, có thể sai hoặc thiên vị bên này hoặc bên kia. Chúng ta đang sống trong một xã hội dân chủ nên TP và HTND phải tôn trong và lắng nghe ý kiến của nhân dân nhưng đồng thời phải giữ vững bản lĩnh của mình không vì sức ép của báo chí và dư luận của xã hội mà xét xử thiên vị, không vô tư, khách quan gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
3.1.2 Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với các yếu tố bên trong
Theo quy đinh tại Điều 52 BLTTDS về thành phần xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thì: “Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân”. Như vậy, số lượng HTND luôn chiếm đa số trong các thành phần HĐXX vụ án dân sự, HTND là những người không chuyên làm công tác xét xử nhưng khi tham gia hoạt động xét xử phải được độc lập với Thẩm phán trong mọi khâu của quá trình xét xử, trong đó có sự độc lập với TP. Mục đích của chế định xét xử có HTND tham gia không đơn thuần là cùng TP xét xử cho xong vụ án dân sự theo quy định của pháp luật TTDS. Quan trọng hơn, pháp luật giao trọng trách cho HTND thay mặt nhân dân tham gia xét xử, giám sát, chế ước và hạn chế tiêu cực trong hoạt động của Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế XHCN. Đây là nguyên tắc hiến định, thể hiện mối quan hệ giữa TP và HTND xét trên bình diện quyền năng của mỗi người. Nguyên tắc này gắn liền với nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Để đảm bảo sự độc lập giữa TP và HTND cần xác định rõ tính chất mối quan hệ giữa họ với nhau trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và giai đoạn xét xử tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì theo quy định tại Điều 42 BLTTDS thì HTND có quyền nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa để biết được nội dung cũng như vấn đề cần phải được giải quyết vụ án. Mối quan hệ giữa TP và HTND trong giai đoạn này mang tính chất hỗ trợ nhau. HTND có thể phát hiện những vấn đề cần trao đổi với TP để bổ sung vào việc xét xử như cần thêm người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan… mà trong quá trình làm những thủ tục bạn đầu Thư ký Tòa án hoặc TP vì những lý do khác nhau đã không phát hiện ra. Hoặc đề nghị trưng cầu giám định để HĐXX kết luận được chính xác. Mặc dù quan hệ giữa TP và HTND trong gia đoạn này mang tính chất hỗ trợ nhau những giữa họ phải có sự độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm tra, đánh gia các tài liệu chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết yêu cầu của đương sự.
Tại phiên tòa tính độc lập giữa TP và HTND được thể hiện ngày một rõ hơn. HĐXX sơ thẩm tiến hành xét xử thông qua việc nghe các bên đương sự trình bày, tranh luận, kiểm tra và xác minh các tài liệu, chứng cứ của vụ án một cách toàn diện và khách quan; áp dụng đúng pháp luật để giải quyết vụ án. Theo Điều 222 BLTTDS thì TP chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đên HTND. HTND có quyền hỏi tất cả các vấn đề mà mình cho là cần thiết để giải quyết vụ án mà không phụ thuộc vào TP. Trong quá trình điều khiển phiên tòa, TP phải luôn xác định rằng HTND là những người ngang quyền với mình để từ đó có thái độ đúng đắn trong mối quan hệ giữa các thành viên của HĐXX.
Sự độc lập giữa TP và HTND được thể hiện rõ nhất trong quá trình nghị án. Do tính chất đặc biệt quan trong của bản án nên pháp luật TTDS quy định một trình tự đặc biệt để thảo luận và ra bản án. Điều 236 BLTTDS thì: “Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án”. TP tuyệt nhiên không được áp đặt ý kiến của mình đối với HTND khi ra phán quyết cuối cùng về vụ án. Như vậy, sự độc lập xét xử của TP và HTND không cho phép thành viên này được áp đặt ý kiến chủ quan của mình lên các thành viên khác trong cùng một HĐXX
3.2 Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này đòi hỏi có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
TP và HTND chỉ tuân theo pháp luật ở đây có nghĩa là tuân theo cả luật nội dung và luật hình thức. Vì vậy, khi xét xử các vụ án dân sự, TP và HTND phải căn cứ vào các quy định của BLDS, Luật hôn nhân gia đình, Luật thương mại, Luật lao động… và đối chiếu các tình tiết các vụ án với các quy định của pháp luật nội dung để xác định trên thực tế có hành vi vi phạm pháp luật hay không. Đồng thời phải căn cứ vào BLTTDS và các văn bản ban hành hướng dẫn để xác định thẩm quyền cũng như trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, khi giải quyết các vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, các TP còn phải căn cứ vào các Công ước quốc tế, các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Có như vậy thì các bản án, quyết định của Tòa án mới đảm bảo tính khách quan, công bằng và đúng pháp luật. Hoạt động xét xử các vụ án dân sự là việc phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháo các hành vi của chủ thể pháp luật. Một phán quyết của Thẩm phán liên quan trực tiếp sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh sự, nhân phẩm của công dân. Nó còn ảnh hưởng tới lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức và những giá trị đượ thừa nhận chung trong xã hội. Vì thế, hoạt động xét xử phải chính xác, công minh trong việc vận dụng và áp dụng pháp luật, thể hiện được ý chí và nguyện vong của nhân dân.
TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không có nghĩa là họ không chịu bất cứ một sự kiểm tra, giám sát nào. Mà ngược lại, theo quy định của BLTTDS, hoạt động xét xử các vụ án dân sự luôn chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án cấp trên. Sự giám sát này không có nghĩa là sự can thiệp của Viện kiểm sát hay Tòa án cấp trên vào hoạt động xét xử của TP và HTND mà nó nhằm đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật một cách chính xác và thống nhất. Có như vậy, mới đảm bảo được tính đúng đắn và hợp pháp của các bản án, quyết định của Tòa án. Điều 13 BLTTDS đã xác định trách nhiền của cơ quan, người tiến hành TTDS; theo đó, họ phải có trách nhiệm trước pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
3.3 Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau. Độc lập là điều cần cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Độc lập là biểu hiện của tuân theo pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc là một phần nội dung của nguyên tắc. Thẩm phán và hội thẩm độc lập với nhau và độc lập với các yếu tố khác. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chụi bất kì sự tác động nào thì phán quyết của Hội đồng xét xử mới có tính khách quan, vô tư, quyết định của Hội đồng xét xử mới đảm bảo đúng pháp luật. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm tuân theo pháp luật.
Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến xét xử tùy tiện. Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Xét ở khía cạnh thuần túy của tính độc lập, để có thể tự mình đưa ra phán quyết, Thẩm phán và hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy định của pháp luật. Khi nắm chắc kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm có điều kiện để thể hiện sự độc lập trong phán quyết của mình. Xét ở khía cạnh khác thì tuân theo pháp luật là đã loại trừ các tác động khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, bởi vậy họ mới có được sự độc lập.
Nguyên tắc độc lập trong xét xử không mâu thuẫn gì với nguyên tắc sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam được quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1992. Vì pháp luật chính là sự thể chế hóa đường lối của Đảng, nên việc tuân thủ pháp luật cũng chính là phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Mọi sự can thiệp của các cấp ủy Đảng và đảng viên có chức vụ, quyền hạn vào việc xét xử của từng vụ án cụ thể của Hội đồng xét xử đều thể hiện nhận thức không đúng đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử của Tòa án.
Độc lập trong việc thống nhất với chỉ tuân theo pháp luật: Độc lập nhưng phải dựa trên những quy định của pháp luật. Mọi kết luận của bản