Việt nam là quốc gia thuộc nhóm các nước đang phát triển, trong quá trình hội nhập quốc tế. Nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng cũng đứng trước những thời cơ và thách thức. Cũng như các quốc gia trên Thế giới, trong quá trình thực hiện mở cửa và hội nhập quốc tế, lĩnh vực tài chính ngân hàng thường đi trước một bước vì thế mà những hạn chế của lĩnh vực này cũng bộc lộ sớm nhất. Việt nam cũng không nằm ngoài quy luật này. Hơn nữa, điểm yếu nhất của hệ thống ngân hàng Việt nam là quy mô vốn nhỏ, năng lực và khả năng cạnh tranh còn hạn chế, trong khi hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải đối mặt với những cạnh tranh khốc liệt, thị trường mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Đứng trước thách thức trên Chính phủ đã tăng cường các biện pháp phòng ngừa rủi ro cho hệ thống ngân hàng, một trong những biện pháp đó là Chính sách về Bảo hiểm tiền gửi. Hầu hết các nền kinh tế trên Thế giới, đặc biệt là những nền kinh tế phát triển cao như Mỹ, Canada, Đức và một số nền kinh tế điển hình của Châu á như Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc đều xây dựng cho mình một tổ chức Bảo hiểm tiền gửi hoạt động có hiệu quả. Việt nam thời gian qua, chính sách Bảo hiểm tiền gửi đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như về cơ sở pháp lý điều chỉnh; sức ỳ, độ nhờn trong các công cụ của chính sách, tính hiệu quả của các công cụ
Nếu các vấn đề trên không được khắc phục, chỉnh sửa, bổ sung kịp thời, chính sách Bảo hiểm tiền gửi không thể tiếp tục đi vào cuộc sống, khi đó sẽ thành lực cản đối với nền kinh tế và đặc biệt là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, Bảo hiểm tiền gửi. Vì vậy vấn đề đặt ra cho hướng lựa chọn đề tài là nghiên cứu chính sách Bảo hiểm tiền gửi của một số nước và từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.
Khóa luận vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh dựa trên các tài liệu thu thập được để một mặt phân tích thực trạng hoạt động Bảo hiểm tiền gửi của Việt nam, mặt khác cũng tìm hiểu một số vấn đề trong quá trình hoạt động của các tổ chức Bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ và Đài Loan. Đây là hai tổ chức Bảo hiểm tiền gửi tiêu biểu trên Thế giới và của khu vực Châu á mà có nhiều kinh nghiệm để Việt nam có thể học hỏi, áp dụng vào quá trình hoàn thiện chính sách Bảo hiểm tiền gửi của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận bao gồm ba chương cơ bản:
Chương 1: Tổng quan về Bảo hiểm tiền gửi
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam và một số nước trên thế giới, bài học kinh nghiệm
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị
106 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2191 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách bảo hiểm tiền gửi của một số nước và từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Việt nam là quốc gia thuộc nhóm các nước đang phát triển, trong quá trình hội nhập quốc tế. Nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng cũng đứng trước những thời cơ và thách thức. Cũng như các quốc gia trên Thế giới, trong quá trình thực hiện mở cửa và hội nhập quốc tế, lĩnh vực tài chính ngân hàng thường đi trước một bước vì thế mà những hạn chế của lĩnh vực này cũng bộc lộ sớm nhất. Việt nam cũng không nằm ngoài quy luật này. Hơn nữa, điểm yếu nhất của hệ thống ngân hàng Việt nam là quy mô vốn nhỏ, năng lực và khả năng cạnh tranh còn hạn chế, trong khi hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải đối mặt với những cạnh tranh khốc liệt, thị trường mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Đứng trước thách thức trên Chính phủ đã tăng cường các biện pháp phòng ngừa rủi ro cho hệ thống ngân hàng, một trong những biện pháp đó là Chính sách về Bảo hiểm tiền gửi. Hầu hết các nền kinh tế trên Thế giới, đặc biệt là những nền kinh tế phát triển cao như Mỹ, Canada, Đức…và một số nền kinh tế điển hình của Châu á như Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc… đều xây dựng cho mình một tổ chức Bảo hiểm tiền gửi hoạt động có hiệu quả. Việt nam thời gian qua, chính sách Bảo hiểm tiền gửi đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như về cơ sở pháp lý điều chỉnh; sức ỳ, độ nhờn trong các công cụ của chính sách, tính hiệu quả của các công cụ…
Nếu các vấn đề trên không được khắc phục, chỉnh sửa, bổ sung kịp thời, chính sách Bảo hiểm tiền gửi không thể tiếp tục đi vào cuộc sống, khi đó sẽ thành lực cản đối với nền kinh tế và đặc biệt là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, Bảo hiểm tiền gửi. Vì vậy vấn đề đặt ra cho hướng lựa chọn đề tài là nghiên cứu chính sách Bảo hiểm tiền gửi của một số nước và từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.
Khóa luận vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… dựa trên các tài liệu thu thập được để một mặt phân tích thực trạng hoạt động Bảo hiểm tiền gửi của Việt nam, mặt khác cũng tìm hiểu một số vấn đề trong quá trình hoạt động của các tổ chức Bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ và Đài Loan. Đây là hai tổ chức Bảo hiểm tiền gửi tiêu biểu trên Thế giới và của khu vực Châu á mà có nhiều kinh nghiệm để Việt nam có thể học hỏi, áp dụng vào quá trình hoàn thiện chính sách Bảo hiểm tiền gửi của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận bao gồm ba chương cơ bản:
Chương 1: Tổng quan về Bảo hiểm tiền gửi
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam và một số nước trên thế giới, bài học kinh nghiệm
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn ThS. Hồ Hồng Hải và các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bài khóa luận này.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1. Sự ra đời, khái niệm, đặc điểm bảo hiểm tiền gửi
1.1. Sự ra đời
Vào những năm cuối thế kỷ 20, sự không ổn định của hệ thống ngân hàng đã nổi lên như một vấn đề khó khăn đối với các quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển và phát triển. Để đối phó với tình trạng này, Chính phủ nhiều quốc gia đã thực hiện những biện pháp để đưa hệ thống ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động lành mạnh, phát triển ổn định. Một trong những biện pháp đó là Luật Bảo hiểm tiền gửi hay còn gọi là Chính sách Bảo hiểm tiền gửi của Quốc gia.
1.2.Khái niệm Bảo hiểm tiền gửi
“ Thị trường đối phó với rủi ro bằng cách phân tán rủi ro. Đó là quá trình mang rủi ro vốn rất lớn đối với một người rồi phân tán nó cho nhiều người sao cho nó chỉ còn là rủi ro nhỏ đối với số đông. Hình thức phân tán rủi ro chính là bảo hiểm” (Fredic S.Mishkin (2001)- Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội, tái bản lần thứ 3).
John Black định nghĩa bảo hiểm tiền gửi trong từ điển kinh tế Oxford phát hành năm 1997, New York như sau: “ Bảo hiểm tiền gửi là dịch vụ bảo hiểm rủi ro các ngân hàng hoặc các trung gian tài chính bị phá sản cho người có tiền gửi tại các ngân hàng hoặc trung gian tài chính đó”. Định nghĩa này đã phản ánh tương đối rõ ràng nội dung của bảo hiểm tiền gửi. Thực tế bảo hiểm tiền gửi là bảo hiểm trách nhiệm dân sự của tổ chức huy động tiền gửi đối với người gửi tiền.
Rủi ro trong bảo hiểm tiền gửi là trường hợp các ngân hàng hoặc tổ chức huy động tiền gửi khác bị phá sản. Thông thường trong các trường hợp như vậy mức đền bù cho người có tiền gửi tại tổ chức bị phá sản phụ thuộc vào giá trị tài sản còn lại và người gửi tiền có thể mất trắng số tiền gửi của mình. Tuy nhiên khi tồn tại cơ chế bảo hiểm tiền gửi thì tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ thực hiện cam kết bảo hiểm đó là thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền gốc và lãi của các khoản tiền gửi cho người gửi tiền. Người hưởng lợi từ dịch vụ bảo hiểm tiền gửi là những người có tiền gửi tại các ngân hàng và tổ chức huy động tham gia Bảo hiểm tiền gửi.
Theo tài liệu “Xây dựng hệ thống Bảo hiểm tiền gửi hiệu quả” của Diễn đàn ổn định tài chính (Financial Stability Forum) tháng 9 năm 2001, “Bảo hiểm tiền gửi được hiểu là một sự đảm bảo rằng số dư gốc và lãi cộng dồn của các tài khoản tiền gửi nhất định sẽ được thanh toán đến một giới hạn nhất định”. Định nghĩa này của Diễn đàn ổn định tài chính có thể được hiểu rằng có một giới hạn nhất định trong việc chi trả tiền bồi thường và chỉ những khoản tiền gửi nhất định mới được bảo hiểm. Điều này cho thấy sự khác biệt cơ bản giữa bảo hiểm tiền gửi và cơ chế bảo lãnh trọn gói. Trong cơ chế bảo lãnh trọn gói, khi tổ chức huy động tiền gửi bị phá sản, Chính phủ đứng ra thanh toán toàn bộ số tiền gửi cho người nhận tiền gửi.
Để hiểu rõ thêm, chúng ta có thể tham khảo quy chế bảo hiểm của Công ty bảo hiểm tiền gửi Canada, trong đó quy định: “Bảo hiểm tiền gửi bảo vệ những khoản tiền gửi quy định tại các tổ chức thành viên của hệ thống bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp tổ chức thành viên bị phá sản. Nếu một tổ chức thành viên bị phá sản, công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra bồi thường cho những người gửi tiền tại tổ chức đó.”
Như vậy có thể hiểu rằng: Bảo hiểm tiền gửi là việc Nhà nước đưa ra lời đảm bảo tới một giới hạn đối với tiền gửi nhất định nhằm bảo vệ tiền gửi thông qua các quy định về bảo hiểm tiền gửi đối với người gửi tiền hay tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức nhận tiền gửi.
1.3. Đặc diểm của Bảo hiểm tiền gửi
Nói chung bảo hiểm tiền gửi tại tất cả các nước đều có chung một số đặc điểm như sau:
- Chỉ bảo hiểm các khoản tiền gửi. Nhiều quốc gia loại trừ không bảo hiểm các khoản tiền đầu tư, tiền gửi liên ngân hàng và các khoản tiền gửi của ban lãnh đạo, các cổ đông lớn của tổ chức huy động tiền gửi. Lý do loại trừ đó là các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh ngân hàng là những người nắm vững quy luật thị trường, do vậy trước khi đầu tư họ đã cân nhắc mức độ rủi ro, ban lãnh đạo và các cổ đông lớn của các tổ chức huy động tiền gửi là những người nắm vững và chịu trách nhiệm về tình hình tài chính của tổ chức này, do vậy họ có thể bảo vệ quyền lợi của mình mà không phải dựa vào bảo hiểm tiền gửi.
- Người mua bảo hiểm là các ngân hàng, các tổ chức huy động tiền gửi khác. Người hưởng lợi từ bảo hiểm tiền gửi là những người gửi tiền tại tổ chức được bảo hiểm
Người gửi tiền không phải làm thủ tục đăng kí mua bảo hiểm tiền gửi. Bằng việc tham gia hệ thống Bảo hiểm tiền gửi của tổ chức nhận tiền gửi, tất cả các khoản tiền gửi trong giới hạn và phạm vi bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đều tự động được bảo hiểm.
- Bảo hiểm tiền gửi là loại dịch vụ (hàng hoá) mang tính xã hội cao, xuất phát từ một trong các mục đích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là góp phần đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ là toàn xã hội. Theo cách phân loại của nhà kinh tế học Stiglitz, bảo hiểm tiền gửi là hàng hoá công cộng (hàng hoá công) không thuần tuý.
Xuất phát từ mục đích của chính sách bảo hiểm tiền gửi mà dịch vụ Bảo hiểm tiền gửi được coi là hàng hoá công. Tính chất công cộng của dịch vụ Bảo hiểm tiền gửi là ở chỗ Bảo hiểm tiền gửi đáp ứng nhu cầu chung của toàn xã hội, tức là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng và bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Ai cũng có quyền bình đẳng được tiếp cận đến loại hàng hoá dịch vụ này, và việc người này sử dụng không ảnh hưởng nhiều đến người khác sử dụng chúng.
Dù muốn hay không, ta cũng không thể loại trừ sự thụ hưởng dịch vụ Bảo hiểm tiền gửi một cách tuyệt đối. Mặc dù người hưởng lợi trực tiếp từ Bảo hiểm tiền gửi là người gửi tiền và các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi thì những đối tác khác vẫn được hưởng lợi một cách gián tiếp.
Người gửi tiền có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm được hưởng lợi trực tiếp khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khi có rủi ro ngân hàng, tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán, bị đóng cửa, người gửi tiền sẽ được tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thanh toán tiền bảo hiểm. Đây chính là số tiền mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cam kết với tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi khi thực hiện bảo hiểm.
Các tổ chức huy động tiền gửi cũng được hưởng lợi. Hơn ai hết, người sản xuất thường biết rõ hơn người tiêu dùng về sản phẩm mà họ bán. Các chủ ngân hàng và giám đốc ngân hàng biết rõ về tình hình tài chính của họ hơn là khách hàng. Do thiếu khả năng tiếp cận thông tin nên trong điều kiện vốn nhàn rỗi có hạn, khách hàng đắn đo khi quyết định đem tiền gửi vào tổ chức huy động tiền gửi hay lựa chọn một kênh đầu tư sinh lời khác và cũng đắn đo khi quyết định lựa chọn ngân hàng để gửi tiền. Khi tiền gửi được bảo hiểm, khách hàng an tâm hơn khi lựa chọn tổ chức nhận tiền gửi. Các tổ chức huy động tiền gửi, nhờ vậy sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng và huy động được nhiều tiền gửi hơn.
Trên thực tế khi ngân hàng được bảo hiểm đã góp phần làm cho kinh tế ít biến động, ổn định hơn, rủi ro sẽ giảm bớt đối với các doanh nghiệp. Mặt khác các đối tượng vay tiền sẽ sử dụng tiền vay an toàn và hiệu quả hơn, các dự án đầu tư cũng hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho phát triển các ngành nghề kinh tế khác. Xã hội bình ổn, các ngành nghề kinh tế phát triển, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp,…đời sống nhân dân được nâng cao.
Như vậy trực tiếp hay gián tiếp, chúng ta đều dược hưởng lợi từ Bảo hiểm tiền gửi, và thật sự là không thể loại trừ sự thụ hưởng một cách tuyệt đối một cá nhân, hoặc một tổ chức trong xã hội, hoặc việc loại trừ này rất khó khăn và tốn kém. Chính vì đặc tính này mà Bảo hiểm tiền gửi được xếp vào loại hàng hoá công không thuần tuý.
- Bằng chứng của hoạt động Bảo hiểm tiền gửi là giấy chứng nhận Bảo hiểm tiền gửi do tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cấp cho tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi.
- Tất cả các tổ chức bảo hiểm đều quy định phạm vi và giới hạn bảo hiểm một cách áp đặt. Người gửi tiền không thể mua thêm bảo hiểm cho các khoản tiền gửi của mình để được các tổ chức bảo hiểm chi trả nhiều hơn giới hạn bảo hiểm. Các khoản tiền gửi ngoài giới hạn bảo hiểm sẽ không được các tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thanh toán mà được xử lý như các món nợ khác của tổ chức tài chính bị phá sản. Giới hạn bảo hiểm này bao gồm cả tiền gửi gốc và lãi cộng dồn từ ngày gửi tiền đến thời điểm tổ chức tham gia bảo hiểm bị phá sản. Tuy nhiên các khoản tiền gửi có tính chất khác nhau có thể được bảo hiểm khác nhau.
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có quyền chủ nợ thế quyền đối với các khoản tiền gửi được bảo hiểm đã chi trả. Nói chung tất cả các quốc gia đều không chi trả cho các khoản tiền gửi được chi trả ở nước ngoài do không kiểm soát được mức độ rủi ro cho các khoản tiền gửi đó.
2. Mục tiêu, đối tượng của chính sách Bảo hiểm tiền gửi
2.1. Mục tiêu
Chính sách Bảo hiểm ở mỗi quốc gia khác nhau là khác nhau: phi lợi nhuận hay vì lợi nhuận. Nhưng dù là có mục tiêu nào thì cũng hướng tới một số nội dung cơ bản như sau:
- Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền: thể hiện ở việc hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất và có một cơ chế bồi thường nhanh chóng.
- Bảo vệ các trung gian thanh toán có hoạt động ngân hàng: phòng ngừa nguy cơ đổ vỡ, hiệu ứng dây chuyền.
- Bảo vệ tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, góp phần làm minh bạch thị trường tiền tệ, đảm bảo an ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Chính sách Bảo hiểm tiền gửi có vai trò vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách của Nhà nước, nó biểu hiện không chỉ trong lĩnh vực tài chính tiền tệ mà cả trong lĩnh vực đảm bảo an ninh chính trị và xã hội, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Khi có một ngân hàng bị đổ vỡ sẽ dẫn đến sự mất lòng tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng. Đặc biệt khi có khủng hoảng ngân hàng, người gửi tiền sẽ đổ xô cùng lúc để rút tiền gốc bỏ qua cả lãi. Và có thể sẽ ảnh hưởng đến chính trị an ninh xã hội. Ví dụ: khủng hoảng ngân hàng tại Anbani năm 1987 làm sụp đổ hệ thống quỹ tiết kiệm, dẫn đến nội chiến gây sụp đổ chính phủ và hệ thống chính trị.
2.2. Đối tượng
Bao gồm: tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi (gọi tắt là tổ chức tham gia), tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, người gửi tiền, loại tiền gửi được bảo hiểm
2.2.1.Tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi
Là các ngân hàng, trung gian tài chính được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật có nhận tiền gửi. Tuỳ mục tiêu và chính sách của mỗi quốc gia mà cơ chế tham gia được quy định cho phù hợp, nhưng nhìn chung là một trong hai hình thức: tự nguyện hoặc bắt buộc.
Hình thức tự nguyện: tổ chức có nhận tiền gửi có quyền lựa chọn có tham gia hay không.
Hình thức bắt buộc: các tổ chức có nhận tiền gửi phải tham gia bắt buộc. Bảo hiểm bắt buộc là hình thức bảo hiểm mà bên được bảo hiểm và bên bảo hiểm có nghĩa vụ phải thực hiện đúng đắn các quy định không được tự ý thay đổi.
Mỗi hình thức đều có những hạn chế nhưng hiện nay hình thức bảo hiểm bắt buộc có ít hạn chế hơn, đang được hầu hết các hệ thống Bảo hiểm tiền gửi trên Thế giới áp dụng.
2.2.2.Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
Là tổ chức được nhà nước cho phép nhận đóng góp tiền gửi từ phía tổ chức tham gia và thực hiện trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền được bảo hiểm tại tổ chức tham gia, khi tổ chức đó mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và bị phá sản, phải chi trả tiền bảo hiểm.
Các loại hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi:
+ Theo mục tiêu hoạt động: Mục tiêu vì lợi nhuận là các tổ chức thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi, mục tiêu lấy thu bù chi sao có lợi nhuận để tồn tại và phát triển. Mục tiêu phi lợi nhuận là các tổ chức hoạt động chính là bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí.
+ Theo quy mô chức năng: gồm loại hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi đa chức năng- là các tổ chức với chức năng thực hiện các nội dung hoạt động theo hầu hết các công cụ của chính sách Bảo hiểm tiền gửi. Và loại hình đơn năng- là những tổ chức chỉ thực hiện một hoặc một số ít chức năng với nội dung vận hành một số công cụ của chính sách Bảo hiểm tiền gửi, cũng có khi chỉ như một bộ phận quản lý tiền quỹ bảo hiểm. + Theo loại hình doanh nghiệp: gồm loại hình đa hình thức sở hữu, hoạt động được điều chỉnh theo Luật Doanh nghiệp; và loại hình tổ chức tài chính Nhà nước chỉ thuộc sở hữu Nhà nước, hoạt động theo sự điều chỉnh của pháp luật về lĩnh vực Bảo hiểm tiền gửi.
2.2.3.Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm
Là đối tượng có các loại tiền gửi được bảo hiểm (chỉ nội tệ hay cả ngoại tệ) gửi tại tổ chức tham gia. Tuỳ theo mục tiêu, chính sách của quốc gia mà đối tượng được bảo hiểm là cá nhân hay tổ chức.
Người gửi tiền được bảo hiểm nhưng không phải nộp phí.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm, nhận tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm tại tổ chức tham gia đến một hạn mức chi trả nhất định hoặc nhận toàn bộ số tiền được bảo hiểm mà họ đã gửi các tổ chức tham gia khi các tổ chức đó bị đổ vỡ. Số tiền bảo hiểm tuỳ thuộc chính sách Bảo hiểm tiền gửi ở mỗi quốc gia quy định.
2.2.4.Các loại tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm
Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi được pháp luật bảo vệ và chịu sự điều chỉnh của chính sách Bảo hiểm tiền gửi, ngược lại là loại tiền gửi không được bảo hiểm. Trong nhiều hệ thống Bảo hiểm tiền gửi đang quy định một số hay toàn bộ các loại tiền gửi sau không thuộc diện bảo hiểm: tiền gửi ở nước ngoài của các ngân hàng trong nước, tiền gửi bằng bản tệ của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tiền gửi là ngoại tệ, tiền gửi liên ngân hàng.Các khoản tiền gửi trên thường là các khoản lớn, nên với cơ chế Bảo hiểm tiền gửi có hạn chế, các loại tiền gửi trên có thuộc diện được bảo hiểm hay không cũng không có khác biệt đáng kể. Một số nước không bảo hiểm cho các khoản tiền gửi của người làm trong ngân hàng (lãnh đạo ngân hàng), điển hình là hệ thống tiền gửi của Pháp.
3. Các công cụ của Bảo hiểm tiền gửi
3.1.Cấp vốn, hỗ trợ tài chính cho hệ thống Bảo hiểm tiền gửi
3.1.1.Cấp vốn hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia
Vấn đề duy trì tỷ lệ vốn tự có của mỗi thành viên và nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của mỗi thành viên cũng như các tổ chức tham gia luôn là mục tiêu phải đạt tới của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Đây luôn là những vấn đề khó khăn đối với hoạt động bảo hiểm tiền gửi các quốc gia, đặc biệt trong thời điểm hệ thống ngân hàng gặp khó khăn hoặc nền kinh tế trong nước cũng như trên thế giới đang đứng trước nguy cơ bùng nổ cuộc khủng hoảng.
Vốn tự có của các ngân hàng luôn là mối quan tâm hàng đầu của cả hệ thống Bảo hiểm tiền gửi. Vì khi hoạt động của ngân hàng có biểu hiện bất ổn sẽ làm nảy sinh tâm lý nghi ngờ và tâm lý này sẽ được lan truyền trong những người có tiền gửi ở ngân hàng. Vì vậy việc tăng cường năng lực tài chính của tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi luôn được mỗi hệ thống Bảo hiểm tiền gửi quan tâm, đưa ra những cảnh báo cho tổ chức chưa duy trì đủ tỷ lệ này.
3.1.2.Cấp vốn và hỗ trợ tài chính cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
Một số cơ sở xác định vốn và nguồn vốn cần thiết cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi:
+ Dựa vào tỷ lệ vốn và quỹ dự trữ của tổng tổ chức tham gia trên tiền gửi được bảo hiểm hoặc tổng tiền gửi tại tổ chức đó nhằm xác định số tiền cần có trong quỹ bảo hiểm một cách tương đối phù hợp cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Vấn đề đặt ra là xác định số tiền (vốn cấp) phải là bao nhiêu cho phù hợp. Đây thật sự là một vấn đề khó khăn bởi rất khó ước tính, dự toán số lượng, quy mô của các tổ chức tham gia đổ vỡ trong một kỳ nhất định hay khả năng vỡ nợ của các ngân hàng. Ban đầu khi mới thành lập tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thì vốn cấp cũng là vốn huy động. Sau một thời gian thì tổ chức Bảo hiểm tiền gửi mới có thêm thu nhập từ đóng góp tài chính của tổ chức tham gia và từ nguồn khác. Khi đó vốn cấp không đồng nhất với vốn hoạt động. Như vậy tỷ lệ vốn hoạt động cần xác định và duy trì phụ thuộc vào hai yếu tố: Sự gia tăng vốn hoạt động từ đầu tư, phát triển vốn cấp và các quỹ; sự gia tăng của tiền gửi được bảo hiểm hay tổng tiền gửi làm tăng thu nhập từ đóng góp tài chính.
Để giúp tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình, mỗi quốc gia phải xây dựng chính sách Bảo hiểm tiền gửi giải quyết được hai vấn đề quan trọng đặt ra là : Xử lý các khoản tổn thất về tiền gửi; hỗ trợ cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp những khoản tổn thất có tính thảm hoạ vượt quá năng lực tài chính của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho hệ thống Bảo hiểm tiền gửi.
Khi xảy ra tổn thất có tính thảm họa đòi hỏi chính phủ phải có vai trò hậu thuẫn quan trọng, trong đó có hỗ trợ tài chính cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Hình thức hỗ trợ có thể là:
+ Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi được vay từ Ngân hàng Trung ương hoặc Chính phủ để đảm bảo lòng tin của người gửi tiền và đẩy tỷ lệ vốn hoạt động trở lại biên độ bình thường. Ví dụ: ngày 27 tháng 2 năm 1991, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật củng cố FDIC( Federal Deposit Insurance Corporation) cho phép FDIC được vay từ kho bạc Mỹ tối đa 30 tỷ USD, hoàn