Khóa luận Tác động vốn vay của Ngân hàng chính sách xã hội đến xóa đói giảm nghèo ở huyện Phong Điền - Tỉnh Thừa Thiên Huế

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đói nghèo là một vấn đề xã hội rộng lớn, mà cho tới nay chưa có một quốc gia nào giải quyết triệt để không còn có người đói nghèo. Tuy nhiên do nhận thức và phương pháp giải quyết ở những nước có điều kiện kinh tế - xã hội và thể chế chính trị khác nhau thì mức độ và tỷ lệ người đói nghèo nhiều hay ít là có khác nhau. Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp nghèo nàn bởi điều kiện thiên nhiên ít thuận lợi, thường bị thiên tai nên khả năng chế ngự thiên tai là hạn hẹp, kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn lạc hậu, đồng thời trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam là một dân tộc luôn luôn phải chống thù trong giặc ngoài, hứng chịu nhiều tàn dư của chiến tranh. Vừa mới ra khỏi chiến tranh, biết bao hậu họa khiến hàng triệu gia đình phải lâm vào cảnh nghèo đói, bệnh tật. Để khắc phục, trong hòa bình, trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về xóa đói giảm nghèo, hàng năm số hộ đói nghèo đã giảm xuống khoảng 1.8 đến 2.3%. Trong đó, việc thành lập và đưa vào hoạt động Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam – một ngân hàng, một công cụ của Chính phủ hoạt động nhằm mục đích phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách được đông đảo người dân nhiệt tình ủng hộ. Từ đó, đã cho thấy tính ưu việt của chế độ ta là phấn đấu vì mục tiêu con người mà Đảng ta đã xác định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực hiện công bằng xã hội”. Ngân hàng Chính sách xã hội được thành lập theo quyết định 131/2002/QĐ-TTg ngày 4 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo. Việc xây dựng Ngân hàng Chính sách xã hội là điều kiện để mở rộng thêm các đối tượng phục vụ là hộ nghèo, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng chính sách cần vay vốn để giải quyết việc làm, đi lao động có thời hạn ở nước ngoài và các tổ chức kinh tế, cá nhân hộ sản xuất, kinh doanh thuộc các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.

pdf80 trang | Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1820 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tác động vốn vay của Ngân hàng chính sách xã hội đến xóa đói giảm nghèo ở huyện Phong Điền - Tỉnh Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Nguyễn Lê Hiệp SVTH: Lê Văn Minh – K41B-KTNN Trang 1 PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đói nghèo là một vấn đề xã hội rộng lớn, mà cho tới nay chưa có một quốc gia nào giải quyết triệt để không còn có người đói nghèo. Tuy nhiên do nhận thức và phương pháp giải quyết ở những nước có điều kiện kinh tế - xã hội và thể chế chính trị khác nhau thì mức độ và tỷ lệ người đói nghèo nhiều hay ít là có khác nhau. Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp nghèo nàn bởi điều kiện thiên nhiên ít thuận lợi, thường bị thiên tai nên khả năng chế ngự thiên tai là hạn hẹp, kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn lạc hậu, đồng thời trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam là một dân tộc luôn luôn phải chống thù trong giặc ngoài, hứng chịu nhiều tàn dư của chiến tranh. Vừa mới ra khỏi chiến tranh, biết bao hậu họa khiến hàng triệu gia đình phải lâm vào cảnh nghèo đói, bệnh tật. Để khắc phục, trong hòa bình, trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về xóa đói giảm nghèo, hàng năm số hộ đói nghèo đã giảm xuống khoảng 1.8 đến 2.3%. Trong đó, việc thành lập và đưa vào hoạt động Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam – một ngân hàng, một công cụ của Chính phủ hoạt động nhằm mục đích phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách được đông đảo người dân nhiệt tình ủng hộ. Từ đó, đã cho thấy tính ưu việt của chế độ ta là phấn đấu vì mục tiêu con người mà Đảng ta đã xác định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực hiện công bằng xã hội”. Ngân hàng Chính sách xã hội được thành lập theo quyết định 131/2002/QĐ-TTg ngày 4 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo. Việc xây dựng Ngân hàng Chính sách xã hội là điều kiện để mở rộng thêm các đối tượng phục vụ là hộ nghèo, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng chính sách cần vay vốn để giải quyết việc làm, đi lao động có thời hạn ở nước ngoài và các tổ chức kinh tế, cá nhân hộ sản xuất, kinh doanh thuộc các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đây thật sự là tin vui đối với người nghèo và các đối tượng chính sách vì họ tiếp tục có cơ hội tiếp cận nguồn vốn ưu đãi chính thức của Chính phủ để tiến hành sản xuất nhằm từng bước xóa đói giảm nghèo. Đại học Kin h tế Hu ế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Nguyễn Lê Hiệp SVTH: Lê Văn Minh – K41B-KTNN Trang 2 Qua thực tế tìm hiểu cho thấy đa số các hộ nghèo ở huyện Phong Điền có mong muốn được vay vốn để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các hộ nghèo vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau như vay trực tiếp ngân hàng, vay trung gian từ các hội ( hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên), để sử dụng theo mục đích của mình. Chính nhờ nguồn vốn này mà các hộ nghèo đã mạnh dạn đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho họ yên tâm sản xuất, hạn chế được tình trạng vay nặng lãi trong xã hội. Tuy nhiên việc vay vốn và sử dụng vốn vay của hộ nghèo còn nhiều bất cập. Một số hộ nghèo vẫn chưa vay được vốn từ ngân hàng vì nhiều lý do khác nhau. Bên cạnh đó, một số hộ vay được vốn chưa sử dụng vốn vay không đúng mục đích nên hiệu quả đồng vốn vẫn chưa cao dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả của các hộ nghèo vẫn còn khá nhiều gây cản trở rất lớn đến hoạt động tín dụng của ngân hàng làm giảm hiệu quả hoặc thất thoát ngân sách của Nhà nước. So với yêu cầu và ngân sách bỏ ra để tài trợ chương trình xóa đói giảm nghèo thì hiệu quả xóa đói giảm nghèo còn chưa tương xứng. Chính vì vậy việc quản lý và sử dụng ngân sách của Nhà Nước phải tùy theo tình hình cụ thể của từng vùng, từng cá nhân mà có những giải pháp khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và có tác động lớn nhất đến vấn để xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện. Xuất phát từ thực tế như trên, trong quá trình thực tập cuối khóa tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài “Tác động vốn vay của Ngân hàng CSXH đến xóa đói giảm nghèo ở huyện Phong Điền - tỉnh Thừa Thiên Huế” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.  Mục đích nghiên cứu của đề tài - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về tín dụng cho vay hộ nghèo. - Đánh giá thực trạng tiếp cận vốn và tác động của vốn vay đến tình hình nghèo đói trên địa bàn nghiên cứu. - Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn vay đến hộ nghèo.  Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận. - Phương pháp điều tra chọn mẫu: mẫu điều tra gồm 60 hộ nghèo từ 3 xã là Phong Hòa, Phong Hải, Phong Mỹ. Đại học Kin h tế Hu ế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Nguyễn Lê Hiệp SVTH: Lê Văn Minh – K41B-KTNN Trang 3 - Phương pháp kiểm định thống kê. - Phương pháp phỏng vấn trực tiếp. - Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo. - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: để biết được tình hình tiếp cận nguồn vốn của các hộ nghèo từ ngân hàng qua 3 năm 2008 – 2010.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: là các hộ nghèo có vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Phong Điền. - Phạm vi nghiên cứu: tôi chỉ nghiên cứu những tác động của vốn vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Phong Điền đến các hộ nghèo trong chương trình xóa đói giảm nghèo 2008 - 2010, được tiến hành tại 3 xã có đặc điểm địa hình và điều kiện tự nhiên khác nhau đó là: xã Phong Mỹ (vùng núi) , xã Phong Hòa (vùng đồng bằng) và xã Phong Hải (vùng biển). Đại học Kin h tế Hu ế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Nguyễn Lê Hiệp SVTH: Lê Văn Minh – K41B-KTNN Trang 4 PHẦN II NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về nghèo đói 1.1.1.1. Khái niệm nghèo đói Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thõa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương. Nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân, nghèo không chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn thiếu thốn trong việc tiếp cận dịch vụ, như giáo dục, văn hóa, y tế, không chỉ thiếu tiền mặt, thiếu những điều kiện tốt hơn cho cuộc sống mà còn thiếu thể chế kinh tế thị trường hiệu quả, trong đó có các thị trường đất đai, vốn và lao động cũng như các thể chế nhà nước được cải thiện có trách nhiệm giải trình và vận hành trong khuôn khổ pháp lý minh bạch cũng như một môi trường kinh doanh thuận lợi. Mức nghèo còn là tình trạng đe dọa bị mất những phẩm chất quý giá, đó là lòng tin và lòng tự trọng. Việt Nam đã thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống nghèo đói khu vực Châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại ở Băng Cốc – Thái Lan tháng 9/1993: “Nghèo đói là một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. Các nhu cầu cơ bản của con người được nói ở đây là các nhu cầu ăn, mặc, ở, học hành. Có thể xem đây là định nghĩa chung nhất về nghèo đói, một định nghĩ có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ thông về nghèo đói. Khái niệm nghèo đói được hiểu theo hai quan điểm: nghèo đói tuyệt đối và nghèo đói tương đối. Đại học Kin h tế Hu ế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Nguyễn Lê Hiệp SVTH: Lê Văn Minh – K41B-KTNN Trang 5 Ngân hàng phát triển Châu Á đã đưa ra khái niệm nghèo đói tuyệt đối và tương đối như sau: - Nghèo đói tuyệt đối: theo David O.Dapice thuộc viện phát triển quốc gia Harvard: “Nghèo đói tuyệt đối là không ai có khả năng mua một lượng sản phẩm tối thiểu để sống”. Nghèo đói tuyệt đối là hiện tượng xảy ra khi mức thu nhập hay tiêu dùng của một bộ phận dân cư giảm xuống thấp hơn giới hạn nghèo đói. Giới hạn nghèo đói có thể được xác định hoặc căn cứ vào chi phí ước tính cho một khối lượng hàng hóa cơ bản theo giá cả hợp lý hoặc căn cứ vào tiêu chuẩn dinh dưỡng. Vì vậy thường có yếu tố tùy tiện trong định nghĩa về sự nghèo đói tuyệt đối, để đảm bảo ý nghĩa trên giác độ xã hội thì giới hạn tối thiểu không thể xác định theo một số tuyệt đối về sinh học mà cần thiết phải có sự thay đổi tùy theo mức độ phát triển chung về kinh tế, xã hội và chính trị. - Nghèo đói tương đối: “là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng”. Nghèo đói tương đối được xét trong tương quan xã hội, phụ thuộc vào địa điểm dân cư sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ biến ở nơi đó. Sự nghèo đói tương đối được hiểu là những người sống dưới mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định. Đây là những người bị tước đoạt những cái mà đại bộ phận những người khác trong xã hội được hưởng. Do đó chuẩn mực để xem xét nghèo đói tương đối thường khác nhau từ nước này sang nước khác hoặc từ vùng này sang vùng khác. Nghèo đói tương đối cũng là một hình thức biểu hiện sự bất bình đẳng trong phân phối và thu nhập. 1.1.1.2. Đặc điểm của hộ nghèo đói Người nghèo sống khắp nơi trong xã hội nhưng nhìn chung họ tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn và ven thành thị. Ở nông thôn, họ phân bố nhiều ở các vùng biển và vùng núi. Người dân ở các vùng dân tộc thiểu số thường chiếm tỷ lệ nghèo đói rất cao, mà nguyên nhân chính là sự cách biệt về địa lý xã hội, chịu nhiều sức ép do thiếu tư liệu sản xuất trầm trọng, các thông tin và dịch vụ hỗ trợ thường khó đến được với họ vì thiếu nhiều phương tiện cũng như năng lực để sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Đại học Kin h tế Hu ế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Nguyễn Lê Hiệp SVTH: Lê Văn Minh – K41B-KTNN Trang 6 Đặc điểm nghèo đói ở nông thôn khác với thành thị, hộ nghèo ở nông thôn sống chủ yếu nhờ vào làm nông nghiệp vì vậy thu nhập chủ yếu của họ dựa vào năng suất, sản lượng của hoạt động chăn nuôi và trồng trọt. Còn ở thành thị, hộ nghèo thường đi làm thuê, bán sức lao động của mình để mưu sinh qua ngày. Ở nông thôn, người nghèo thường sống ở những nơi khó khăn thiếu thốn nhiều về tư liệu sản xuất, phải canh tác trên những vùng đất bạc màu, cằn cổi nên năng suất sản xuất thấp là điều không thể tránh khỏi, bên cạnh đó cơ hội để có những nguồn thu nhập phi nông nghiệp là rất thấp. Tại các vùng đồng bằng, người nghèo may mắn có tài nguyên khá hơn nhưng lại thiếu các dịch vụ xã hội, tự ty và thiếu kế hoạch làm ăn nên nhìn chung thu nhập của người nghèo vẫn không thể cải thiện được. Xét một cách chung nhất hộ nghèo thường có những đặc điểm sau: - Hộ nghèo thường có thu nhập thấp, không ổn định, không có việc làm thường xuyên. - Hộ nghèo thường có trình độ học vấn thấp, khả năng tiếp cận các thông tin rất hạn chế so với đại bộ phận dân cư. - Ốm đau, bệnh tật cùng với thu nhập thấp nên vấn đề nợ nần là không tránh khỏi, dẫn đến tệ nạn xã hội phát sinh bởi vì “Đói ăn vụng, túng làm liều”. Người nghèo dễ bị tổn thương và làm những điều phạm pháp có ảnh hưởng không tốt đến cộng đồng. - Hộ nghèo rất dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, địch họa nhưng rất khó khắc phục lại được. - Bị hạn chế về khả năng nhận thức và kỹ năng sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, người nghèo thường tổ chức sản xuất theo thói quen, chưa biết mở mang ngành nghề và chưa có điều kiện tiếp xúc với thị trường. Do đó, sản xuất mang nặng tính tự cung tự cấp, chưa tạo được sản phẩm hàng hóa và đối tượng sản xuất kinh doanh thường thay đổi. 1.1.1.3. Nguyên nhân gây ra nghèo đói Nghèo đói là hậu quả đan xen của nhiều nhóm các yếu tố, nhưng chung quy lại thì có thể chia nguyên nhân đói nghèo theo các nhóm sau: Đại học Kin h tế Hu ế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Nguyễn Lê Hiệp SVTH: Lê Văn Minh – K41B-KTNN Trang 7 a. Nhóm nguyên nhân do bản thân người nghèo - Thiếu vốn sản xuất: Các tài liệu điều tra cho thấy đây là nguyên nhân chủ yếu nhất. Người dân thiếu vốn thường rơi vào vòng luẩn quẩn, sản xuất kém, làm không đủ ăn, phải đi thuê, phải đi vay để đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày. Có thể nói: Thiếu vốn sản xuất là một lực cản lớn nhất hạn chế sự phát triển của sản xuất và nâng cao đời sống của các hộ gia đình nghèo. - Thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm ăn: Phương pháp canh tác cổ truyền đã ăn sâu vào tiềm thức, sản xuất tự cung tự cấp là chính, thường sống ở những nơi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn, thiếu phương tiện, con cái thất học Những khó khăn đó làm cho hộ nghèo không thể nâng cao trình độ dân trí, không có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác, thiếu kinh nghiệm và trình độ sản xuất kinh doanh dẫn đến năng xuất thấp, không hiệu quả. - Bệnh tật và sức khoẻ yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng. - Thiếu tư liệu sản xuất: thiếu thốn về tư liệu và công cụ lao động nhất là đất đai canh tác ít, tình trạng không có đất canh tác đang có xu hướng tăng lên làm cho các hộ nghèo không thể phát triển kinh tế gia đình để thoát nghèo được. - Thiếu việc làm, không năng động tìm việc làm, lười biếng; Mặt khác do hậu quả của chiến tranh dẫn đến nhiều người dân bị mất sức lao động, nhiều phụ nữ bị góa phụ dẫn tới thiếu lao động hoặc thiếu lao động trẻ, khỏe có khả năng đảm nhiệm những công việc nặng nhọc. - Gặp những rủi ro trong cuộc sống, người nghèo thường sống ở những nơi hẻo lánh, xa trung tâm, thời tiết khắc nghiệt, nơi mà thường xuyên xảy ra hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh. Cũng chính do thường sống ở những nơi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn mà hàng hóa của họ sản xuất thường bị bán rẻ (do chi phí giao thông) hoặc không bán được, chất lượng hàng hóa giảm sút do lưu thông không kịp thời. b. Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên xã hội Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình nghèo, ở những vùng khí hậu khắc nghiệt : thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, đất đai cằn cỗi, diện tích canh tác ít, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, cơ sở hạ tầng thiếu hoặc không có là những vùng có nhiều hộ nghèo đói nhất. Đại học Ki h tế Hu ế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Nguyễn Lê Hiệp SVTH: Lê Văn Minh – K41B-KTNN Trang 8 1.1.1.4. Quan điểm về nghèo đói Hộ nông dân nói chung và các hộ nông dân đói nghèo là những đơn vị kinh tế tự chủ, nhưng điều kiện làm ăn của mỗi loại nông hộ là khác nhau. Trong lịch sử của nền kinh tế tự nhiên và trong sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần những năm qua, cách làm ăn của các loại nông hộ nói chung là theo kinh nghiệm sẵn có được ghi nhớ trong đầu óc họ, hoặc “gặp đâu làm đó” chứ chưa có sự tính toán, lập kế hoạch làm ăn, kinh doanh ngắn hạn và dài hạn (gồm: sản xuất – dịch vụ - bán – tiêu dùng – tích lũy sản xuất mở rộng). Trong tình hình đó, một bộ phận nông hộ có điều kiện và tích lũy được kinh nghiệm làm ăn, bước đầu biết tính toán đầu tư đã giàu lên. Và ngược lại thì nghèo đói. Đói nghèo là do nhiều nguyên nhân, nhưng suy cho cùng là do thiếu điều kiện và không có kế hoạch làm ăn phù hợp dẫn đến bị động, thiếu tính tự chủ trong sản xuất, dịch vụ để sinh sống, để tự xóa đói giảm nghèo một cách bền vững và tiến tới kinh doanh có lợi ngày càng cao. Trước thực trạng đó, trong nhiều năm nay Đảng đã có nhiều chủ trương cùng Nhà nước đã có nhiều chương trình và giải pháp thực hiện xóa đói giảm nghèo trong đó có việc đưa Ngân hàng chính sách xã hội vào hoạt động với một số vốn đã đang và sẽ chi đến hàng nghìn tỷ đồng; đồng thời nhiều tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng đã quan tâm trợ giúp, trong đó có chương trình hợp tác Việt – Đức, Bỉ, Phần Lan, Đó là những cố gắng vượt bậc của Đảng và Nhà nước Việt Nam với sự hợp tác giúp đỡ của cộng đồng và quốc tế. Nhờ vậy, tỷ lệ nghèo đói hàng năm đã được giảm xuống, bộ mặt nông thôn Việt Nam hiện nay đã có nhiều đổi mới. Tuy nhiên, so với yêu cầu và vốn liếng bỏ ra để tài trợ về xóa đói giảm nghèo thì hiệu quả còn chưa tương xứng.( Đến năm 2010 cả nước vẫn còn đến 10-11% hộ nghèo. Trong đó có những làng bản, thôn xã ở những vùng ven biển và miền núi diện đói nghèo lên đến 30 % - 40 % ). Và khi gặp thiên tai thì diện nghèo đói lại tăng lên. Có tình hình đó bởi nhiều nguyên nhân. Trong đó, theo tôi có một nguyên nhân cơ bản – có tác dụng tổng hợp về mặt mọi mặt – là hộ nghèo thiếu vốn hoặc vay được vốn vay ưu đãi của Ngân hàng CSXH nhưng không biết cách làm ăn, chưa biết xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch làm ăn, tự chủ xóa đói giảm nghèo bền vững và từ đó tiến lên có kế hoạch kinh doanh để làm giàu. Đại học Kin h tế Hu ế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Nguyễn Lê Hiệp SVTH: Lê Văn Minh – K41B-KTNN Trang 9 1.1.1.5. Các tiêu chí phân định hộ nghèo đói Định nghĩa: Chuẩn nghèo là một tiêu chuẩn để đo mức độ nghèo của các hộ dân, là căn cứ cho các hỗ trợ về chính sách cho hộ đó. Chuẩn nghèo ở mỗi quốc gia là khác nhau. Ở Việt Nam nghèo đói được phân theo chuẩn nghèo quốc gia, nghĩa là dựa vào thu nhập bình quân khẩu/tháng. Do vậy, từ năm 1993 đến cuối năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã bốn lần nâng mức chuẩn nghèo. Ngày 27/9/2001, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005", những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn, miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết, mức chuẩn nghèo giai đoạn 2006 - 2010 do Chính phủ ban hành năm 2005 đã không còn phù hợp nữa do biến động kinh tế và chỉ số giá tiêu dùng đã tăng hơn 40% so với thời điểm ban hành. Vì vậy, Bộ đã đề xuất phương án điều chỉnh chuẩn nghèo áp dụng cho năm 2010 như sau: Khu vực nông thôn là những hộ có mức thu nhập bình quân từ 300.000 đồng/người/tháng (dưới 3,6 triệu đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo; Khu vực thành thị là những hộ có mức thu nhập bình quân từ 390.000 đồng/người/tháng (dưới 4.680.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Dự kiến, theo điều chỉnh chuẩn nghèo này, tỉ lệ hộ nghèo cả nước sẽ là khoảng 16 - 17%, tương ứng với 3,2 - 3,4 triệu hộ nghèo. Đại học Kin h tế Hu ế Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Nguyễn Lê Hiệp SVTH: Lê Văn Minh – K41B-KTNN Trang 10 Bảng 1: Tiêu chí phân loại hộ nghèo đói theo khu vực của Bộ LĐ – TBXH ĐVT: đồng/người/tháng Giai đoạn Khu vực Thu nhập bình quân đầu người 2001 – 2005 Nông thôn, miền núi và hải đảo < = 80.000 Nông thôn đồng bằng < = 100.000 Thành thị < = 150.000 2006 – 2010 Nông thôn < = 200.000 Thành thị < = 260.000 2010 Nông thôn < = 300.000 Thành thị < = 390.000 (Nguồn: Bộ LĐ – TBXH) Ngoài chỉ tiêu thu nhập, còn có chỉ tiêu về nhà ở và tiện nghi sinh hoạt, chỉ tiêu về tư liệu sản xuất, chỉ tiêu về vốn. - Chỉ tiêu về nhà ở và tiện nghi sinh hoạt: Những người nghèo đói thường sống trong những căn hộ tồi tàn, nhà tranh vách đất, nhà lá dừa, lợp tôn, Đồ dùng sinh hoạt không có gì ngoài giường gỗ, tre, chõng, và vài thứ khác ở dưới mức trung bình về lượng, tồi tàn về chất. Tuy nhiên, có một số người nghèo nhưng vẫn có nhà xây kiên cố, có một vài đồ dùng khá, đó là do kế thừa của cha ông hoặc là dấu tích của thời kỳ khá giả còn lại trước khi rơi vào cảnh nghèo đói. - Chỉ tiêu về tư liệu sản xuất: ở nông thôn tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai, tuy nhiên những hộ nghèo đói thường có rất ít,