Sau hơn mười năm thực hiện đường lối mới của Đảng và Nhà nước sản xuất cũng như xuất khẩu gạo đã từng bước phát triển. Từ một nước thiếu lương thực nay đã là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, sản lượng xuất gạo của Việt Nam hàng năm tăng lên liên tục, cơ cấu sản xuất nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh của các sản phẩm ở từng vùng, từng địa phương trong cả nước. Kim ngạch xuất khẩu gạo cũng tăng lên đều đặn, thị trường được mở rộng liên tục. Hiện nay, lúa gạo của Việt Nam đã có mặt ở trên 80 quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa xuất khẩu gạo của nước ta đã phát triển vững chắc và đạt hiệu quả cao. Mặc dù đã tham gia xuất khẩu gạo được 13 năm nhưng hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn còn thấp. Có nhiều vấn đề nổi cộm trong xuất khẩu gạo như: chất lượng gạo còn thấp, chênh lệch giá xuất khẩu của Việt Nam và thế giới còn lớn. Khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường thế giới chủ yếu dựa vào giá thấp, thị trường không ổn định. Hệ thống thu gom xuất khẩu còn yếu kém, đơn lẻ nên chưa phù hợp và đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Quản lý điều hành của các Bộ, ngành liên quan còn chậm, thiếu linh hoạt, chính vì thế việc xuất khẩu gạo của Việt Nam còn kém hiệu quả và thua thiệt nhiều.
Hiện nay, số lượng xuất khẩu của ta nhiều song lại phải bán với giá thấp vì chưa hấp dẫn với khách hàng quốc tế. Nguyên nhân của vấn đề này vẫn là mối quan tâm của tất cả các nhà lãnh đạo, các ngành liên quan bởi họ vẫn chưa tìm ra lối thoát thực sự cho sản phẩm gạo Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhận thức được lợi ích to lớn và những khó khăn mà xuất khẩu gạo nước ta đang gặp phải, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Lợi thế trong sản xuất và giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam
34 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4144 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lợi thế trong sản xuất và giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn mười năm thực hiện đường lối mới của Đảng và Nhà nước sản xuất cũng như xuất khẩu gạo đã từng bước phát triển. Từ một nước thiếu lương thực nay đã là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, sản lượng xuất gạo của Việt Nam hàng năm tăng lên liên tục, cơ cấu sản xuất nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh của các sản phẩm ở từng vùng, từng địa phương trong cả nước. Kim ngạch xuất khẩu gạo cũng tăng lên đều đặn, thị trường được mở rộng liên tục. Hiện nay, lúa gạo của Việt Nam đã có mặt ở trên 80 quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa xuất khẩu gạo của nước ta đã phát triển vững chắc và đạt hiệu quả cao. Mặc dù đã tham gia xuất khẩu gạo được 13 năm nhưng hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn còn thấp. Có nhiều vấn đề nổi cộm trong xuất khẩu gạo như: chất lượng gạo còn thấp, chênh lệch giá xuất khẩu của Việt Nam và thế giới còn lớn. Khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường thế giới chủ yếu dựa vào giá thấp, thị trường không ổn định. Hệ thống thu gom xuất khẩu còn yếu kém, đơn lẻ nên chưa phù hợp và đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Quản lý điều hành của các Bộ, ngành liên quan còn chậm, thiếu linh hoạt, chính vì thế việc xuất khẩu gạo của Việt Nam còn kém hiệu quả và thua thiệt nhiều.
Hiện nay, số lượng xuất khẩu của ta nhiều song lại phải bán với giá thấp vì chưa hấp dẫn với khách hàng quốc tế. Nguyên nhân của vấn đề này vẫn là mối quan tâm của tất cả các nhà lãnh đạo, các ngành liên quan bởi họ vẫn chưa tìm ra lối thoát thực sự cho sản phẩm gạo Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhận thức được lợi ích to lớn và những khó khăn mà xuất khẩu gạo nước ta đang gặp phải, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Lợi thế trong sản xuất và giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam ”.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA GẠO
Nền kinh tế mỗi nước đều có những nguồn lực nhất định ( đất đai, tiền vốn, kỹ thuật lao động ...) nguồn lực luôn gắn với nguồn lực khan hiếm. Để sản xuất mặt hàng nào đó với số lượng bao nhiêu nhiều hay ít thì nền kinh tế phải có sự lựa chọn để phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý. Xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế, đương nhiên các nước sẽ lựa chọn các mặt hàng nào có lợi thế so sánh cao nhất để thông qua trao đổi thương mại tận dụng và phát huy các lợi thế so sánh sẵn có và tiết kiệm được nguồn lực, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Từ thế kỷ 18, các nhà kinh tế học người Anh là Adamsmith và David Ricardo đã đưa ra “ Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối so sánh” cho đến nay vẫn được coi là lý thuyết nền tảng của thương mại quốc tế. Lợi thế cạnh tranh được coi như vấn đề có tính chiến lược và sách lược của từng quốc gia, để phát huy các yếu tố về lợi thế tuyệt đối và so sánh trong quá trình sản xuất và trao đổi thương mại.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TRONG XEM XÉT LỢI THẾ SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU LÚA GẠO VIỆT NAM.
1.Lợi thế tuyệt đối:
Thực chất của lợi thế tuyệt đối là việc so sánh chi phí sản xuất của cùng một loại sản phẩm ở các nước khác nhau. Nước có chi phí sản xuất cao hơn sẽ nhập sản phẩm từ có nước có chi phí sản xuất thấp hơn, mọi nguồn lực tập trung cho việc sản xuất sản phẩm mà nước đó có chi phí sản xuất thấp để xuất khẩu. Theo Adam Smith thì chi phí sản xuất thấp phải xuất phát từ việc quốc gia đó có lợi thế về nguồn tài nguyên sẵn có như đất đai, khí hậu, lao động. ở các nước đang phát triển đặc biệt như nước ta hiện nay, có nguồn tài nguyên dồi dào lý thuyết này hoàn toàn có ý nghĩa. Ở các nước đã phát triển, tài nguyên đã bị khai thác hoặc không có tài nguyên chúng ta phải xem xét lợi thế tương đối.
2. Lợi thế tương đối (Lợi thế so sánh):
Thương mại quốc tế có từ lâu đời và có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình phát triển. Các quốc gia cũng như các cá nhân không thể tồn tại riêng rẽ mà không có mối quan hệ với nhau. Mỗi quốc gia đều có nguồn lực và khả năng sản xuất giới hạn. Trao đổi buôn bán quốc tế cho phép quốc gia mở rộng khả năng tiêu dùng vượt quá khả năng sản xuất, vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia là phải chọn mặt hàng, phân bổ nguồn lực một cách hợp lý để sử dụng một cách hợp lý.
Lý thuyết lợi thế tương đối được hình thành dựa vào việc xem xét chi phí so sánh để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm ở các nước. Ví dụ ở Việt Nam sản xuất một máy kéo phải hi sinh 10 tấn lúa, Nhật Bản phải hi sinh 5 tấn lúa nên chi phí sản xuất lúa của Việt Nam bằng 1/10 máy kéo, của Nhật Bản bằng 1/5 máy kéo. Theo lý thuyết lợi thế tương đối của Ricacdo: Việt Nam có chi phí sản xuất lúa thấp hơn Nhật Bản nên Việt NAm chuyên môn hoá sản xuất lúa, còn Nhật có chi phí sản xuất máy kéo thấp hơn thì Nhật chuyên môn hoá sản xuất máy kéo và hai nước tiến hành trao đổi cho nhau. Sau trao đổi tiêu dùng của hai nước nằm ngoài đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF). Lợi thế tương đối được thực hiên trên nguyêntắc chuyên môn hoá sản phẩm có chi phí thấp hơn sau đó trao đổi lấy sản phẩm có chi phí so sánh cao hơn nhằm thu lợi từ giá tương đối rẻ hơn so với sản xuất trong nước.
Như vậy, thương mại dựa trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm có lợi thế tương đối cũng làm tăng thêm lợi ích xã hội. Lý thuyết đã được xây dựng trên một loạt giả thiết được đơn giản hoá như chỉ có 2 nước sản xuất hàng hoá, nhân tố sản xuất duy nhất là lao động có thể di chuyển tự do trong nước, chi phí sản xuất không đổi, công nghệ không đổi, thương mại hoàn tự do. Do vậy, mặc dù quy luật của lợi thế so sánh là nguyên lý cơ bản quan trọng của kinh tế học nhưng vẫn hạn chế vì nó chủ yếu dựa vào lý luận giá trị lao động cho rằng lao động là yếu tố đầu vào duy nhất. Trong thực tế lao động không phải là đồng nhất, những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau, hơn nữa đầu vào của sản xuất còn bao gồm: đất đai, vốn, khoa học công nghệ.
Trong điều kiện kinh tế thị trường đang diễn ra mạnh mẽ chỉ khai thác lợi thế so sánh chưa đủ mà phải khai thác lợi thế cạnh tranh.
3. Lợi thế cạnh tranh:
Ngày nay, xu thế hội nhập và tự do hoá thương mại nó như một tiền đề thúc đẩy kinh tế phát triển nhưng nó cũng như là thách thức về sự cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Về nguyên lý, lợi thế tuyệt đối và tương đối được xét và đánh giá bởi các yếu tố tự nhiên và kinh tế, nó thuần tuý ở dạng tiềm năng. Đối với một nước nếu tiềm năng về tự nhiên có được như rừng vàng biển bạc những vẫn bị nghèo đói nếu không có một giải pháp hữu hiệu để khai thác tiềm năng đó. Vì vậy, các tiềm năng cần được đặt trong mối quan hệ với các vấn đề chính trị đặc biệt là môi trường và chính sách kinh tế. Chỉ trên cơ sở khai thác hiệu quả các điều kiên tự nhiên, kinh tế xã hội mới có sức mạnh tổng hợp cao trong sản xuất và xuất khẩu. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, lơi thế so sánh không thể tồn tại lâu dài mà có sự chuyển hoá thay đổi qua các giai đoạn. Việc xác đinh lợi thế cạnh tranh đã xem xét tới khía cạnh trí tuệ trong khai thác các tiềm năng tự nhiên, kinh tế đó là các yếu tố lao động có như vậy mới có giải pháp chủ động khai thác lợi thế và tiềm lực của nền kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu.
Như vậy, lợi thế cạnh tranh là sự biểu hiện tính trội của mặt hàng đó về chất lượng và cơ chế vận hành của nó trên thị trường tạo nên sức hấp dẫn và thuận tiện cho khách hàng trong quá trình sử dụng. Nét đặc trưng của lợi thế cạnh tranh được thể hiên trên các mặt: chất lượng, giá sản phẩm, khối lượng sản phẩm và thời gian giao hàng, tính chất về sự khác biệt của sản phẩm hàng hoá và cơ chế vận hành tạo môi trường thương mại. Lợi thế cạnh tranh còn bao gồm chi phí cơ hội và năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, đạt tiêu chuẩn quốc tế và thị hiếu tiêu dùng trên các thj trường cụ thể, nguồn cung cấp phải ổn định, môi trường thương mại thông thoáng, thuận lợi. Do vậy lợi thế cạnh tranh và những nội dung mang tính giải pháp về chiến lược và sách lược của một đất nước trong quá trình sản xuất trao đổi và thương mại, lợi thế cạnh tranh chính là nghệ thuật phát huy những lợi thế sẵn có của chính mình để tạo thành ưu thế hàng hoá trong cạnh tranh.
4. Điều kiện vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh.
Thuyết lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh có ý nghĩa hết sức thiết thực đối với sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên, muốn lợi dụng các thuyết lợi thế cần phải có những điều kiện nhất định:
Một là: Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh được vận dụng trong điều kiên ngoại thương vì vậy các nước muốn khai thác lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh trước tiên phải có nền sản xuất hàng hoá theo hướng xuất khẩu. Đây là điều kiện cơ bản vận dụng nguyên lý về lợi thế cạnh tranh.
Hai là: Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh luôn gắn với yêu cầu mang tính xã hội, trong đó vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước mang tính quyết định. Vì vậy, để điều vận các lý thuyết về lợi thế là có cơ chế quản lý năng động, các chính sách kinh tế mở tạo khả năng khai thác các tiềm năng tự nhiên tạo ra sức cạnh tranh.
Ba là: Muốn khai thác được lợi thế cần đánh giá đầy đủ chúng, muốn vậy phải có các chuyên gia kinh tế sử dụng thành thạo các phương pháp đánh giá gắn liền với các hoạt động kinh tế thị trường.
Bốn là: Để đánh giá được các lợi thế phải có hệ thống thông tin với mức độ tin cậy cao, phản ánh chính xác số lượng, chất lượng các yếu tố để đáp ứng yêu cầu đó phải điều tra, khảo sát các điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội trong nước, nắm chắc các thông tin về thị trường thế giới.
5. Lợi thế của Việt Nam trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Vấn đề tích cực trong hội nhập là chủ động tham gia các quan hệ hợp tác thương mại, tham gia vào phân công lao động quốc tế mà biểu hiện tập trung và chủ yếu nhất là thực hiện chiến lược đẩy mạnh sản xuất – xuất khẩu hàng hoá.
Qua phân tích nghiên cứu, các nhà kinh tế cho rằng Việt Nam có đủ 4 yếu tố rất cơ bản về lợi thế trong hoạt động xuất khẩu nông sản đặc biệt là gạo, bao gồm: Vị trí địa lý; nguồn lao động; tài nguyên thiên nhiên; chính sách đổi mới và sự ổn định nền kinh tế vĩ mô.
5.1 Ví trí địa lý.
Lịch sử nông nghiệp thế giới đã xác định 4 trung tâm nông nghiệp đầu tiên của loài người là: Trung Đông với lúa mì, lúa mạch, đậu Hà Lan; TRung Mỹ với ngô và khoai lang, Đông Nam á với lúa nước: Bắc Trung Quốc với cao lương. Như vậy, Việt Nam thuộc một trong bốn trung tâm nông nghiệp đầu tiên với cây lúa nước là đặc trưng. Khoa học Việt Nam năm 1964 khẳng định: “ Việt Nam nếu không phải là trung tâm duy nhất xuất hiện cây lúa trồng thì cũng là một trong những trung tâm sớm nhất”. Như vậy, có thể nói cây lúa nước là cây bản địa của Việt Nam.
Việt Nam nằm ở vòng cung Châu á - Thái Bình Dương, đây là nơi đang diễn ra những dòng giao lưu kinh tế sôi động nhất và hứa hẹn cho những bước phát triển trong tương lai. Việt Nam năm trên tuyến giao thông quốc tế quan trọng và có hệ thống biển là cửa ngõ không chỉ đối với nền kinh tế Việt Nam mà còn đối với nền kinh tế của nhiều quốc giai khác. Đây là điều vô cùng thuận lợi so với các nước khác nằm sâu trong lục địa hoặc nằm ở những nơi ít diễn ra hoạt động thương mại quốc tế. Lợi thế về mặt địa lý của nước ta đang rất thuận lợi tạo ra một môi trường kinh tế năng động, linh hoạt, giảm được chi phí vận chuyển và khả năng mở rộng thị trường trao đổi hàng hoá và các hoạt động dịch vụ. Đây là lợi thế cần khai thác và phát huy trong phát triển kinh tế, nếu không biết tận dụng và phát huy là đang tự đánh mất cơ hội trong phát triển.
5.2 Lợi thế về điều kiện tự nhiên, khí hậu và sinh thái.
Quá trình phát triển của cây lúa nước bao gồm 5 thời kỳ, tất cả các thời kỳ cây lúa đều đòi hỏi nhiệt độ lớn hơn 20(C, được tưới thường xuyên, có lượng nhiệt đủ lớn để cây đẻ nhánh và làm hạt tốt...Điều kiện nước ta hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu đó. Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm có độ ẩm không khí cao khoảng 80%, nhiệt độ thường xuyên trên 20(C, khí hậu ấm áp có tổng bức xạ mặt trời lên tới 140 – 200 kilo calo/1cm2/năm, số giờ nắng trong năm đạt trung bình 1200giờ/năm và tập trung mạnh vào thời kỳ làm hạt của lúa, góp phần cho năng suất cao. Lượng mưa hàng năm của nước ta rất lớn, trung bình 1500 – 2000mm, hệ thống nước ngầm có trữ lượng lớn, chỉ tính dưới lớp đất dày 1m lượng nước dự trữ đã là 100 –150mm, hệ thống sông ngòi dày dặc...là điều kiện tiên quyết cho sản xuất lúa nước phát triển vì nó đảm bảo cung cấp đủ nước tưới cho hàng triệu ha lúa. Ngoài ra hệ thống sông ngòi dày đặc cũng đem lại cho Việt Nam nhiều đồng bằng thung lũng, tạo nền tảng cho ruộng lúa nước ra đời ở nước ta.
Ngoài ra, nước ta có điều kiện và sinh thái khá phong phú và đa dạng. Với sự hình thành 7 vùng sinh thái khác nhau mỗi vùng có đặc thù và thế mạnh riêng trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Với việc bố trí cây trồng, vật nuôi... mà thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta, đặc biệt có nhiều tiểu vùng “sinh thái – khí hậu đặc thù” cho phép phát triển một số cây đặc sản có giá trị xuất khẩu cao mà ít nơi có được tạo cho nông sản Việt Nam có năng suất sinh học cao và có những đặc trưng về “hương vi - chất lượng” tự nhiên được thế giới ưa thích, là những lợi thế trong cạnh tranh về tính độc đáo của nông sản Việt Nam. Mà ở một số vùng đã hội tụ được nhiều điều kiện thuận lợi cho việc bố trí vật nuôi cây trồng có giá trị xuất khẩu lớn mang tính đặc sản có giá trị của nền nông nghiệp Việt Nam như: Vùng Tây Nguyên có cây cà phê, vùng Đông Nam Bộ phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, vùng trung du miền núi phía Bắc là vùng có tiềm năng kinh tế đa dạng cho phép bố trí cây trồng vật nuôi có hiệu quả như cây chè, chăn nuôi đại gia súc.
5.3 Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai vựa lúa lớn của cả nước.
Đồng bằng sông Hồng(ĐBSH) và đồng bằng sông Cửu Long(ĐBSCL) là hai vựa lúa lớn nhất của cả nước, được đánh giá vào loại phì nhiêu trên thế giới.
Đồng bằng sông Hồng là đồng bằng lớn có diện tích 1,5 triệu ha được bồi đắp do hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, đây cũng là đồng bằng cổ màu mỡ trên thế giới được bồi tụ hàng tỉ tấn đất mỗi năm, chỉ tính 1m3 nước vào mùa khô cũng chuyển 0,5 kg phù sa. ĐBSH có chứa hàm lượng đạm amôn, lân, nirat và các nguyên tố vi lượng khác khá cao, độ PH đạt trị số 6 – 6.5 được xem như trung tính. Các điều kiện trên hoàn toàn phù hợp để chúng ta phát triển cây lúa nước theo hướng thâm canh cho năng suất cao, sản lượng tăng hàng năm đạt 4%, tạo ra 1 triệu tấn thóc hàng hoá 1 năm. Ngoài ra, ĐBSH là đồng bằng cổ có lịch sử khai thác hơn 4 triệu năm nên đát canh tác thuần thục lâu năm. Đến nay cùng với ĐBSCL, ĐBSH đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong sản xuất lúa gạo đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu.
Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng lớn nhất nước ta được hình thành chủ yếu do phù sa hệ thống sông Mê Kông bồi tụ hàng năm. Đất phù sa sông Cửu Long có rất nhiều tính trội, lượng đạm, lân, và các chất khác trong đất khá cao: cứ 1 lít nước ĐBSCL chứa 2.4 mg đạm, 0.6 mg lân. ĐBSCL là đồng bằng trẻ được khai thác vào cuối thế kỷ 17. Giữa thế kỷ 19 diện tích lúa ở đây là 20 vạn ha, đến nay đã mở rộng ra 4 triệu ha, đất đai bình quân trên đầu người khoảng 0.4 ha/người. Người dân ĐBSCL đã sớm tận dụng các điều kiện thuận lợi đó để phát triển cây lúa theo hướng sản xuất hàng hoá lớn phục vụ xuất khẩu. Sản lượng lúa ĐBSCL tăng 7% một năm và tạo ra từ 5.5 – 6.2 triệu tấn thóc hàng hoá chiếm hơn 70% lượng gạo xuất khẩu của cả nước hàng năm. Với kết quả đó ĐBSCL giữ vị trí chiến lược trong xuất khẩu lúa gạo nước ta.
Như vậy, với các đặc điểm lý, hoá, tính cả hai đồng bằng lớn nước ta đều có những ưu điểm nổi trội, hoàn toàn phù hợp với sự phát triển cây lúa nức cho năng suất cao. Với độ màu mỡ và đặc điểm điểm thời tiết khí hậu – mùa vụ cho phép ĐBSH và ĐBSCL sản xuất lúa quanh năm (2 - 3 vụ/năm) trên diện rộng và thích nghi với nhiều giống lúa cao sản, lúa đặc sản có năng suất cao. Có thể nói sản xuất lúa của chúng ta không thua kém gì với Thái Lan mà còn đáp ứng được tính đa dạng về chủng loại và phẩm cấp gạo cho thị hiếu tiêu dùng ngày càng đa dạng hiện nay trên thế giới.
Với đặc điểm trên, sản xuất nông nghiệp đặc biệt là ngành trồng lúa nước dã có nhiều thuận lợi cơ bản, chứa đựng những “tiềm năng” về lợi thế cạnh tranh của ngành nông sản trên thị trường. Đó là: năng suất, chất lượng và chi phí sản xuất thấp...Nhờ lợi thế vốn có mà trong nhiều năm qua tuy xuất khẩu ở nước ta chỉ ở dạng nguyên liệu thô hoặc có sơ chế nhưng vẫn có lãi. Song đó cũng chỉ là tiền đề trong quá trình cạnh tranh, vấn đề phải biết phát huy tốt các lợi thế đó để không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu đặc biệt là xuất khẩu gạo trong thời gian tới, bằng những giải pháp hữu hiệu về khoa học công nghệ, chính sách, tạo sự biến đỏi thực sự trong chất lượng và năng suất lao động xã hội. Với sự thay đổi mục tiêu chiến lược của cạnh tranh chuyển trọng tâm từ lợi thế so sánh dựa vào điều kiên tự nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào và giá nhân công rẻ sang lợi thế cạnh tranh mạnh hơn dựa trên tiềm lực khoa học với chi phí thấp cũng như nhiều sản phẩm và quy trình độc đáo hơn.
5.4. Nguồn lao động của Việt Nam dồi dào.
Hiện nay với 37 triệu người đang ở trong độ tuổi lao động ( chiếm 50 % dân số ), hàng năm có khoảng 1 - 1,2 triệu người đến tuổi lao động. Lao động Việt Nam hơn 60 % hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp với các ưu thế đặc trưng là cần cù, thông minh và có khả năng tiếp thu nhanh chóng khoa học công nghệ...Hơn nữa, giá nhân công lại rẻ và thấp hơn nhiều các nước trong khu vực: giá công lao động của Việt Nam chỉ bàng 1/3 của Thái Lan, bằng 1/30 của Đài Loan, 1/26 của Singapo. Đây là lợi thế rất lớn cần khai thác có hiệu quả. Bên cạnh đó còn không ít hạn chế về lao động của Việt nam như: trình độ lao động còn thấp, hầu hết chưa qua đào tạo, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao. Do đó chúng ta cần phải không ngừng khắc phục những hạn chế đó để đáp ứng được yêu cầu của phân công lao động quốc tế.
5.5 Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Kể từ khi thực hiện đường lối của Đảng ( từ đại hội VI – 1981 ) đến nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tưu đáng kể, kinh tế nông nghiệp không ngừng được phát triển, đời sống nông thôn từng bước được nâng cao, nền kinh tế xã hội trở nên năng động, linh hoạt, kinh tế đối ngoại được tăng cường và phát triển trên tất cả các lĩnh vực: hoạt động nhập khẩu, đầu tư, hợp tác và tham gia vào các tổ chức quốc tế. Chính sự ổn định về chính trị và đổi mới chính sách đã tạo đà cho quá trình phát triển. Như vậy, chính sách và môi trường được xem như là một trong những lợi thế có vai trò quyết định tới quá trình phát triển của nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện luôn được bổ sung và hoàn thiện các chính sách, tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho yêu cầu của sự nghiệp phát triển nền kinh tế xã hội.
Uy tín và vai trò của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu nông sản, đặc biệt là thị trường lúa gạo trên thế giới không ngừng được tăng lên. Tuy còn yếu cả về kinh nghiệm và bề dày trong việc tham gia vào thị trường xuất khẩu nhưng đã có tốc độ phát triển nhanh thể hiện sự trưởng thành, biểu hiện sản lượng và kim ngạch xuất khẩu có vị trí cao trên thị trường - xuất khẩu lúa gạo Việt Nam dã đứng hàng thứ hai trên thế giới. Như vậy Việt Nam có ảnh hưởng đáng kể trên thị trường thế giới về mặt hàng gạo xuất khẩu với số lượng và chất lượng ngày càng tăng, vị thế của Việt Nam ngày càng được củng cố trong kinh tế đối ngoại.
II. XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG GẠO THẾ GIỚI.
1. Cung:
Gạo là nhu yếu phẩm tối cần thiết cho nhu cầu hàng ngày của con người. Do nhận thức được tầm quan trọng của lúa gạo mà ngày nay hầu hết các quốc gia đều quan tâm đến lĩnh vực an ninh lương thực, trong đó họ đặc biệt quan tâm đến vấn đề cân đối cung - cầu tạo sự ổn định cho nhu cầu trong nước. Hơn nữa, diễn biến thuận tiện của thời tiết khí hậu trong vài năm gần đây làm lượng lúa gạo trao đổi trên thị trường ngày càng nhiều, rất nhiều quốc gia dư thừa gạo đặc biệt là các nước đang phát triển. Trong vài thập niên vừa qua các nước đang phát triển vẫn thường xuyên chiếm khoảng 80% lượng gạo xuất khẩu trên toà