Trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự tiến bộ
của con người được xem là tiêu chuẩn cao nhất của sự phát triển xã hội. Sự phát
triển xã hội đòi hỏi phải đem lại công bằng, bình đẳng cho mọi người (nam và
nữ) trong cơ hội, điều kiện cống hiến cũng như hưởng thụ các thành quả của
phát triển. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến việc phát triển
nguồn lực con người; “đặt con người vào trung tâm của sự phát triển”. Đảng
coi chiến lược phát triển nguồn lực con người là “chiến lược của các chiến
lược”; coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển; coi việc
phát triển nguồn lực con người là nhân tố quyết định đến thành công của công
cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
Thực hiện bình đẳng giới sẽ góp phần quan trọng vào việc giải phóng lực lượng
sản xuất, khai thác và phát huy một cách có hiệu quả lao động nữ, đảm bảo cho
sự phát triển, tiến bộ của xã hội và tiến tới đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam
hiện nay, phụ nữ ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình. Họ
không chỉ tham gia công tác quản lý, tham gia tích cực vào mọi hoạt động xã
hội, sản xuất có hiệu quả mà còn làm phần lớn công việc gia đình. Mặc dù có
sự đóng góp lớn cho sự phát triển, nhưng trên thực tế, những cống hiến của
phụ nữ chưa được thừa nhận đầy đủ. Phụ nữ còn chịu nhiều thiệt thòi trong
phát triển cá nhân; là nạn nhân của nhiều vấn đề gây nhức nhối và bức xúc
trong xã hội. Sự hạn chế về cơ hội phát triển ở phụ nữ không chỉ làm giảm sút
phúc lợi gia đình và xã hội, cản trở việc phát huy nguồn lực con người mà còn
tạo ra những bất ổn định trong xã hội và gián tiếp cản trở thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc giải phóng phụ nữ, thực
hiện bình đẳng giới, phát huy tiềm năng của phụ nữ là đòi hỏi khách quan và
bức thiết của sự phát triển xã hội.
185 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 435 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ CHIÊN
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2016
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ CHIÊN
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2016
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS,TS. TRIỆU QUANG TIẾN
2. PGS,TS. TRẦN THỊ VUI
HÀ NỘI - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Trần Thị chiên
ii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7
1.1. Những công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án 7
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề luận án tập
trung nghiên cứu
27
Chƣơng 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM
31
2.1. Một số vấn đề lý luận 31
2.2. Cơ sở thực tiễn về thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam 43
Chƣơng 3. CHỦ TRƢƠNG VÀ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ THỰC HIỆN BÌNH
ĐẲNG GIỚI TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2016
63
3.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam 63
3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo thực hiện bình đẳng giới 73
Chƣơng 4. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM 109
4.1. Nhận xét về quá trình lãnh đạo của Đảng và kết quả thực hiện
bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016
109
4.2. Một số kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo thực hiện bình đẳng
giới từ năm 2006 đến năm 2016
137
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự tiến bộ
của con người được xem là tiêu chuẩn cao nhất của sự phát triển xã hội. Sự phát
triển xã hội đòi hỏi phải đem lại công bằng, bình đẳng cho mọi người (nam và
nữ) trong cơ hội, điều kiện cống hiến cũng như hưởng thụ các thành quả của
phát triển. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến việc phát triển
nguồn lực con người; “đặt con người vào trung tâm của sự phát triển”. Đảng
coi chiến lược phát triển nguồn lực con người là “chiến lược của các chiến
lược”; coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển; coi việc
phát triển nguồn lực con người là nhân tố quyết định đến thành công của công
cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
Thực hiện bình đẳng giới sẽ góp phần quan trọng vào việc giải phóng lực lượng
sản xuất, khai thác và phát huy một cách có hiệu quả lao động nữ, đảm bảo cho
sự phát triển, tiến bộ của xã hội và tiến tới đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam
hiện nay, phụ nữ ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình. Họ
không chỉ tham gia công tác quản lý, tham gia tích cực vào mọi hoạt động xã
hội, sản xuất có hiệu quả mà còn làm phần lớn công việc gia đình. Mặc dù có
sự đóng góp lớn cho sự phát triển, nhưng trên thực tế, những cống hiến của
phụ nữ chưa được thừa nhận đầy đủ. Phụ nữ còn chịu nhiều thiệt thòi trong
phát triển cá nhân; là nạn nhân của nhiều vấn đề gây nhức nhối và bức xúc
trong xã hội. Sự hạn chế về cơ hội phát triển ở phụ nữ không chỉ làm giảm sút
phúc lợi gia đình và xã hội, cản trở việc phát huy nguồn lực con người mà còn
tạo ra những bất ổn định trong xã hội và gián tiếp cản trở thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc giải phóng phụ nữ, thực
hiện bình đẳng giới, phát huy tiềm năng của phụ nữ là đòi hỏi khách quan và
bức thiết của sự phát triển xã hội.
2
C ng với việc tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của việc thực
hiện chính sách xã hội nhằm cải thiện đời sống nhân dân, trong đó có việc quan
tâm đến việc hoạch định chủ trương, chính sách, pháp luật về bình đẳng giới
nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, được
bình đẳng trong cơ hội, cống hiến và hưởng thụ các thành quả của xã hội và
được bình đẳng giới trong gia đình.
Tuy nhiên, trong xã hội, những định kiến về giới vẫn còn tồn tại khá
phổ biến không chỉ trong nam giới mà ngay trong chính bản thân phụ nữ.
Định kiến giới mặc định nam giới là trụ cột trong gia đình và ngoài xã hội còn
phụ nữ luôn gắn với công việc nhà, nội trợ, chăm sóc con cái và gia đình.
Những định kiến đó tạo ra không ít những rào cản, mâu thuẫn, thách thức làm
hạn chế vị thế, vai trò của nữ giới. Đó là những rào cản về mặt tâm lý xã hội
trong nhìn nhận, đánh giá năng lực, vị thế... của phụ nữ; là mâu thuẫn giữa
việc thực hiện các vai trò, chức năng làm vợ, làm mẹ trong gia đình với vai
trò, trách nhiệm của người công dân, người lao động trong xã hội; mâu thuẫn
giữa yêu cầu ngày càng cao, càng gay gắt của cơ chế thị trường trong xu thế
toàn cầu hóa với những hạn chế về sức khỏe, kiến thức, kỹ năng, trình độ
chuyên môn kỹ thuật, nắm bắt công nghệ cao của một bộ phận nữ giới. Tư
tưởng đó đã tạo ra cách nhìn lệch lạc về vai trò của nam giới và nữ giới, dẫn
đến thiếu sự chia sẻ của nam giới với phụ nữ trong công việc gia đình và các
hoạt động xã hội, đồng thời hạn chế sự phát triển năng lực cá nhân của phụ
nữ. Những hạn chế đó đã và đang gây cản trở việc thực hiện chính sách, pháp
luật về bình đẳng giới, phát huy nguồn lực lao động nữ trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và trở thành vấn đề cấp thiết, đòi hỏi Đảng và các cấp
chính quyền phải giải quyết một cách có hệ thống trên cả phương diện lý luận
và thực tiễn.
Từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Đả sả
t ạo thực hi bì ẳng giới từ ă 2006 ế ă 2016”
làm luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3
2. Mục đ ch, nhiệ vụ nghi n cứu
2.1. Mụ
Thông qua việc nghiên cứu đề tài “Đả sả t ạo
thực hi bì ẳng giới từ ă 2006 ế ă 2016”, làm sáng tỏ những
quan điểm, chủ trương và quá trình chỉ đạo thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt
Nam về thực hiện bình đẳng giới. Từ đó, đ c kết một số kinh nghiệm qua thực
tiễn lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới những năm 2006 - 2016 của Đảng nhằm
tiếp tục thực hiện tốt hơn bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
2 2 vụ
- Tổng quan các công trình nghiên cứu về giới, bình đẳng giới nói chung
và bình đẳng giới trên các lĩnh vực chính trị; kinh tế, lao động, việc làm; gia
đình nói riêng.
- Hệ thống hóa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ và
các yếu tố tác động đến quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới
từ năm 2006 đến năm 2016.
- Phân tích, luận giải hệ thống những quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng và quá trình Đảng chỉ đạo thực hiện bình đẳng giới từ năm
2006 đến năm 2016.
- Đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan, khoa học về những
ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của quá trình lãnh thực hiện bình đẳng
giới từ năm 2006 đến năm 2016.
- ước đầu đ c kết một số kinh nghiệm từ thực tiễn quá trình Đảng
lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3 1 Đố tượng
Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện bình
đẳng giới của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2016.
4
3.2. Phạm vi
- Về thời gian: Giới hạn nghiên cứu của luận án từ năm 2006 đến
năm 2016. Năm 2006 là năm Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua
Luật Bình đẳng giới ở Việt Nam. Đây là mốc đánh dấu lần đầu tiên Nhà
nước Việt Nam ban hành bộ luật riêng về vấn đề bình đẳng giới. Năm 2016
là mốc tròn 10 năm Luật Bình đẳng giới được ban hành. Tuy nhiên, lịch sử
là một quá trình liên tục nên luận án đã đề cập đến tình hình thực hiện bình
đẳng giới ở Việt Nam trước năm 2006.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới trên phạm vi cả nước.
- Về nội dung:
+ ình đẳng giới thực chất không chỉ là việc giữa hai giới nam và nữ
mà nó còn bao gồm cả trẻ em, nhóm người khuyết tật, cộng đồng những
người LGBT (LGBT là tên viết tắt của cộng đồng những người đồng tính
luyến ái nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), song tính luyến ái
(Bisexual) và hoán tính hay còn gọi là người chuyển giới (Transgender)... Tuy
nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, nghiên cứu sinh chỉ tập trung
làm rõ bình đẳng giới giữa hai giới nam và nữ.
+ Đây là đề tài lớn, với nhiều nội dung phong ph . Trong khuôn khổ
luận án và điều kiện nghiên cứu, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu chủ trương
của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới, quá trình Đảng chỉ đạo xây
dựng khung pháp lý về bình đẳng giới; lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong
chiến lược, chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế xã hội; xây dựng,
kiện toàn bộ máy cơ quan quản lý Nhà nước và nâng cao năng lực của đội ngũ
cán bộ hoạt động làm công tác bình đẳng giới; công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới; xây dựng và duy trì các mô hình
cung cấp dịch vụ, hỗ trợ bình đẳng giới; hoạt động hợp tác quốc tế về bình
đẳng giới; công tác thống kê, công bố thông tin, số liệu về bình đẳng giới và
5
công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới cũng
như kết quả thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2016
trên 3 lĩnh vực: chính trị; kinh tế, lao động, việc làm; gia đình và kết quả của
quá trình đó.
4. Cơ sở u n, hƣơng h nghi n cứu
4 1 s u
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng
nam nữ và bình đẳng giới.
4 2 P ư p áp ê ứu
Phương pháp mà nghiên cứu sinh sử dụng chủ yếu trong luận án là
phương pháp lịch sử và lôgic. Ngoài ra, một số phương pháp khác cũng được
nghiên cứu sinh sử dụng trong quá trình nghiên cứu như:
+ Phương pháp tổng hợp và phân tích, được nghiên cứu sinh sử dụng
trong quá trình thu thập và đánh giá các nguồn tài liệu: các văn kiện của Đảng
và Nhà nước; các công trình nghiên cứu về bình đẳng giới đã được công bố
trong và ngoài nước;...
+ Phương pháp thống kê được dùng trong quá trình xử lý các số liệu trong
các báo cáo thường niên của Chính phủ và các tổ chức chính trị - xã hội...
5. Đ ng g ới về h a học v ngh a thực tiễn của u n n
- Góp phần hệ thống hóa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về bình đẳng
giới từ năm 2006 đến năm 2016.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện bình đẳng giới ở
Việt Nam, luận án rút ra nhận xét về ưu điểm, hạn chế trên ba lĩnh vực: nhận
thức, chỉ đạo thực tiễn, kết quả thực hiện và bước đầu đ c kết một số kinh
nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện
bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016
6
- Cung cấp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội và chương trình hành động thực hiện chiến
lược bình đẳng giới của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6. Bố cục của u n n
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình đã công bố của
tác giả liên quan đến luận án, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung
của luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
ình đẳng giới là một trong những vấn đề thu h t sự quan tâm của các
nhà lãnh đạo, quản lý, của các tổ chức Chính phủ và phi chính phủ, của các
nhà khoa học trong và ngoài nước. Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nhận thức được vị trí, vai trò của phụ nữ và công tác bình đẳng
giới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về phụ nữ, về giới chỉ được đặt ra và giải
quyết như một môn khoa học khi Trung tâm nghiên cứu phụ nữ ra đời năm
1987. Dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau, cho đến nay, nhiều công
trình khoa học, bài viết đã đề cập tương đối toàn diện về vấn đề này. Liên
quan trực tiếp đến luận án có thể khái quát thành mấy nhóm cơ bản sau:
1.1.1. Nhóm các công trình nghi n cứu chủ ngh a M c - L nin, tƣ tƣởng
Hồ Ch Minh, đƣờng ối của Đảng, ch nh s ch của Nh nƣớc về vấn đề
giới v bình đẳng giới
Cuốn sách Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam,
ộ ngoại giao Việt Nam [21], được coi là “sách trắng về vấn đề nhân quyền”
ở Việt Nam vì lần đầu tiên những thành tựu về nhân quyền ở Việt Nam được
công bố. Cuốn sách gồm 4 chương, trong đó dành phần lớn dung lượng để
nêu lên các quan điểm, chính sách của Việt Nam về quyền con người và
những thành tựu quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người về dân sự và
chính trị; về kinh tế, văn hóa và xã hội; về phụ nữ, chăm sóc và bảo vệ trẻ em,
gia đình, người già, người tàn tật. Trong những thành tựu mà cuốn sách đề cập
đến, có thành tựu bảo đảm quyền của phụ nữ, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ.
Cuốn sách Những vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại, Phan Thanh Khôi -
Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) [94], là công trình của tập thể các nhà khoa học
8
của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Cuốn sách đã phân tích vấn đề giới nói chung và bình đẳng giới nói riêng trong
lịch sử nhân loại và Việt Nam. Cùng với việc đề cập đến vấn đề giới trong
truyền thông và Internet, vấn đề giới trong sách giáo khoa giáo dục phổ thông,
cuốn sách đã phân tích vấn đề giới trong những tác phẩm kinh điển của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh; đồng thời, dành một dung lượng đáng
kể nghiên cứu vấn đề giới trong đường lối, chính sách pháp luật của của Đảng và
Nhà nước Việt Nam.
Cuốn sách Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và công
cuộc đổi mới đất nước, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [79], làm rõ vị trí, vai
trò và sức mạnh to lớn của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 đến năm 2007; đồng
thời, cuốn sách cũng nêu bật những quan điểm của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với phụ nữ và phong trào phụ nữ. Trên cơ sở nghiên cứu những đóng
góp to lớn của phụ nữ, cuốn sách không chỉ làm rõ những đóng góp to lớn của
các tầng lớp phụ nữ, phong trào phụ nữ Việt Nam, mà còn khẳng định sự đ ng
đắn trong chủ trương và quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ,
góp phần giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam.
Chương trình hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên Hợp Quốc
về bình đẳng giới, Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về bình đẳng giới
và phòng, chống bạo lực gia đình [42], đã hệ thống các văn bản chỉ đạo của
Đảng; các văn bản quy định hiện hành về bình đẳng giới của Quốc hội, Chính
phủ, của các bộ, ngành; các văn bản hiện hành về phòng, chống bạo lực gia đình,
của Quốc hội, Chính phủ, của các bộ, ngành; các văn bản quy định hiện hành về
tổ chức bộ máy bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ và phòng, chống bạo
lực gia đình của Quốc hội, Chính phủ, của các bộ, ngành; và một số trích đoạn
của các văn kiện quốc tế có liên quan.
Cuốn sách Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh
về phụ nữ và công tác phụ nữ [132], đã tập hợp toàn văn hoặc trích dẫn các
9
bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng, Nhà
nước về phụ nữ và công tác phụ nữ. Nội dung của cuốn sách cung cấp cho
người đọc cái nhìn toàn diện và chính xác về các quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phụ nữ, công tác phụ nữ và
về bình đẳng giới.
Luận án tiến sĩ Hồ Chí Minh học của tác giả Trần Thị Huyền, Tư tưởng
Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ và vận dụng vào thực hiện bình đẳng giới
ở Việt Nam hiện nay [86]. Dưới góc độ chuyên ngành Hồ Chí Minh học, tác
giả đã làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ, thực
trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện
bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra những vấn
đề đặt ra, những nhân tố mới tác động, đồng thời nêu ra quan điểm, giải pháp
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình
đẳng giới ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Đề tài cấp Nhà nước, Điều tra cơ bản về thực trạng bình đẳng giới và
đánh giá tác động của chính sách đối với phụ nữ và nam giới nhằm phục vụ
công tác hoạch định chính sách ở Việt Nam do Đỗ Hoài Nam làm Chủ nhiệm
[117]. Trên cơ sở tiến hành điều tra cơ bản về thực trạng bình đẳng giới ở Việt
Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu và
hạn chế, tác giả đã đánh giá sự tác động của những chính sách đối với phụ nữ,
nam giới trên các v ng miền và trên các lĩnh vực khác nhau. Đồng thời, tác
giả cũng đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản, nhằm phục vụ
công tác hoạch định chính sách ở Việt Nam, góp phần thực hiện bình đẳng
giới và nâng cao hiệu quả của chính sách đối với cả phụ nữ và nam giới.
Tác giả Lê Lục trong công trình Công tác tuyên truyền của Đảng
nahừm nâng cao vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế tri thức [106],
khẳng định vai trò quan trọng của phụ nữ trong phát triển kinh tế tri thức.
Nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế tri thức, bài viết
đưa ra một số giải pháp, trong đó nhấn mạnh giải pháp nâng cao nhận thức
10
cũng như vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong thực hiện mục tiêu
bình đẳng giới trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
Viết về quan điểm của Hồ Chí Minh, về vai trò của phụ nữ, tác giả Thái
Sơn có bài viết “Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ” [146]. Bài viết
phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của phụ nữ trong cách
mạng Việt Nam. Từ đó, tác giả khẳng định: công cuộc giải phóng phụ nữ gắn
với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Trong bài viết, tác giả cũng chỉ ra, để phát huy vai trò của phụ nữ, thực hiện bình
đẳng giới phải có chủ trương, chính sách, pháp luật cụ thể của Đảng và Nhà
nước, để đưa họ tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội. Tuy nhiên,
sự nghiệp giải phóng phụ nữ phụ thuộc vào chính sự cố gắng, phấn đấu vươn
lên của bản thân phụ nữ.
Nguyễn Thị Mỹ Trang, Nguyễn Lê Tâm, “Quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ” [179], đã bàn về quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến các giải
pháp mà chủ nghĩa Mác - Lênin đặt ra để giải phóng phụ nữ: đưa nữ giới
tham gia vào nền sản xuất xã hội và thủ tiêu chế độ tư hữu; xã hội hóa công
việc gia đình đối với phụ nữ; tạo điều kiện để phụ nữ khẳng định vị trí, vai trò
của mình trong gia đình và xã hội; bản thân phụ nữ phải nâng cao ý thức tự
giải phóng.
Vương Thị Hanh, “Phụ nữ Việt Nam và việc tham gia chính trị” [65],
nêu ra các chính sách của Đảng, Nhà nước về bình đẳng giới. Tác giả cũng
phân tích một số nét về tình hình phụ nữ tham gia chính trị ở Việt Nam trong
các công việc chung của cộng đồng và quốc gia; sự tham gia lãnh đạo và ra
quyết định của phụ nữ trong các cấp ủy Đảng, trong Quốc hội, và Hội đồng
nhân dân và chính quyền các cấp. Đồng thời, bài viết cũng làm rõ những yếu
tố ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đến tình hình tham gia chính trị của phụ nữ.
Từ đó, đưa ra kiến nghị về xây dựng công tác cán bộ nữ và đội ngũ cán bộ
11
nữ để đảm bảo phụ nữ được bình đẳng thực sự trong tham gia vào bộ máy
quyền lực.
Nguyễn Thị Ngân, “Chủ trương của Đảng, Nhà nước về giải phóng
phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam” [123], và “Thực hiện quan điểm của
Đảng và chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới” [124]. Trong hai bài
viết, tác giả khẳng định, Đảng và Nhà nước Việ