Luận án Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam hiện nay

Điều chỉnh hành vi con người, xã hội có nhiều công cụ khác nhau, trong đó, pháp luật và đạo đức là những công cụ quan trọng bậc nhất. Bên cạnh những ưu thế vốn có, cả pháp luật và đạo đức đều có những hạn chế nhất định, song giữa chúng luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Chính vì vậy, để quản lý xã hội một cách có hiệu quả, cần phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa pháp luật với đạo đức. Tuy nhiên, thực tế Việt Nam cho thấy, vị trí, vai trò của pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng nhìn chung chưa được nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ cả từ phía nhà nước, cả từ phía xã hội. Trong cơ chế kinh tế cũ, nhận thức về pháp luật có hai khuynh hướng, hoặc quá đề cao pháp luật, coi pháp luật là công cụ vạn năng có thể xác lập hay xóa bỏ một quan hệ xã hội nào đó một cách duy ý chí; hoặc lại hạ thấp vai trò của pháp luật, dẫn đến sử dụng mệnh lệnh hành chính, các quan niệm đạo đức mới như tinh thần làm chủ tập thể, mỗi người vì mọi người. để thay thế cho pháp luật. Trong khi đó, trong một thời gian dài trước đây, do nhận thức ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa xã hội, nên đã không thấy hết được vai trò, giá trị to lớn của truyền thống, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thậm chí nhiều quan niệm đạo đức truyền thống của dân tộc còn bị coi là tàn dư của chế độ cũ cần phải loại bỏ. Lối suy nghĩ, tư duy và hành động đó còn ảnh hưởng không nhỏ trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay. Điều này dẫn đến, trong thực tiễn, việc sử dụng pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội còn nhiều hạn chế, một mặt, những ưu thế vốn có của pháp luật cũng như đạo đức không được phát huy hết, mặt khác, sự tác động bổ sung cho nhau giữa chúng cũng không khai thác được, chính vì vậy, hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của cả pháp luật và đạo đức đều chưa cao.

pdf226 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8304 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYỄN VĂN NĂM QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI 2012 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYỄN VĂN NĂM QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số 62.38.01.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan 2. TS. Nguyễn Quốc Hoàn HÀ NỘI 2012 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực, những kết luận khoa học của luận án là kết quả của quá trình nghiên cứu độc lập và chƣa đƣợc ngƣời khác công bố. Tháng 8 năm 2012 TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Văn Năm 4 Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI 1.1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Điều chỉnh hành vi con người, xã hội có nhiều công cụ khác nhau, trong đó, pháp luật và đạo đức là những công cụ quan trọng bậc nhất. Bên cạnh những ưu thế vốn có, cả pháp luật và đạo đức đều có những hạn chế nhất định, song giữa chúng luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Chính vì vậy, để quản lý xã hội một cách có hiệu quả, cần phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa pháp luật với đạo đức. Tuy nhiên, thực tế Việt Nam cho thấy, vị trí, vai trò của pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng nhìn chung chưa được nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ cả từ phía nhà nước, cả từ phía xã hội. Trong cơ chế kinh tế cũ, nhận thức về pháp luật có hai khuynh hướng, hoặc quá đề cao pháp luật, coi pháp luật là công cụ vạn năng có thể xác lập hay xóa bỏ một quan hệ xã hội nào đó một cách duy ý chí; hoặc lại hạ thấp vai trò của pháp luật, dẫn đến sử dụng mệnh lệnh hành chính, các quan niệm đạo đức mới như tinh thần làm chủ tập thể, mỗi người vì mọi người... để thay thế cho pháp luật. Trong khi đó, trong một thời gian dài trước đây, do nhận thức ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa xã hội, nên đã không thấy hết được vai trò, giá trị to lớn của truyền thống, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thậm chí nhiều quan niệm đạo đức truyền thống của dân tộc còn bị coi là tàn dư của chế độ cũ cần phải loại bỏ. Lối suy nghĩ, tư duy và hành động đó còn ảnh hưởng không nhỏ trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay. Điều này dẫn đến, trong thực tiễn, việc sử dụng pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội còn nhiều hạn chế, một mặt, những ưu thế vốn có của pháp luật cũng như đạo đức không được phát huy hết, mặt khác, sự tác động bổ sung cho nhau giữa chúng cũng không khai thác được, chính vì vậy, hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của cả pháp luật và đạo đức đều chưa cao. Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã qui định: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Xây dựng nhà nước pháp quyền đã trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước và toàn xã hội. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật được đặc biệt coi trọng, giữ vai trò thống trị trong đời sống nhà nước và xã hội, mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội kể cả nhà nước đều phải thượng tôn pháp luật, chấp pháp nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, Việt Nam là một quốc gia Á Đông, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc bởi Nho giáo, sự coi trọng đạo lý, ứng xử theo đạo lý đã trở thành truyền thống của dân tộc. Truyền 5 thống đó ăn sâu, bám chắc trong tâm lý xã hội, nó cố kết chặt chẽ trong tư duy con người. Có thể nói, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, thói quen xử sự theo đạo lý vẫn còn “ngự trị” trong lối sống của không ít người, ngược lại, thói quen xử sự theo pháp luật vẫn chưa được hình thành. Trong điều kiện đó, việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay gặp không ít khó khăn. Qua mấy chục năm tiến hành công cuộc cải cách, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống xã hội đã có sự phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, cùng với nó, mặt trái của nền kinh tế thị trường và việc hợp tác, hội nhập quốc tế cũng gây ra không ít phức tạp, đó là sự coi thường các giá trị truyền thống, lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, chạy theo đồng tiền, đặt vật chất, tiền bạc lên trên hết, tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi cách… Sự xuống cấp của đạo đức xã hội đã gây ra những hệ lụy to lớn, làm đảo lộn các giá trị của cuộc sống, cản trở sự phát triển của xã hội, làm xã hội vận động, phát triển một cách không lành mạnh, thiếu vững chắc. Do vậy, phát triển kinh tế phải đi đôi với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Phát triển kinh tế phải đi đôi với xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hợp tác, hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội quốc tế. Bản lĩnh, sự tự tin cũng như sự thành công trong các quan hệ quốc tế phụ thuộc khá lớn vào nền tảng văn hóa phong phú và đặc sắc của dân tộc. Mở cửa, hợp tác, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì ảnh hưởng của điều kiện quốc tế đến đời sống kinh tế - xã hội trong nước ngày càng lớn, trong đó, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, cũng có không ít những ảnh hưởng tiêu cực. “Mở cửa ra, gió mát lùa vào thì ruồi muỗi cũng bay vào”. Chính vì vậy, cần phải có những rào cản hữu hiệu để sàng lọc, tiếp thu, học hỏi những tinh hoa văn hóa của các dân tộc, ngăn chặn sự ảnh hưởng của những quan điểm, tư tưởng, lối sống độc hại…Trong điều kiện đó, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là một màng lọc có hiệu quả nhất, chúng “đóng vai trò màng lọc và điều tiết việc sản sinh, tiếp thu cái mới, nhất là cái mới từ bên ngoài”, bởi lẽ chúng đã được “sàng lọc, tích lũy và kế thừa qua nhiều thế hệ”, chúng đã trở thành “thuần phong, mỹ tục và mang “khí thiêng sông núi” [123, tr.170,171]. Chính vì vậy, việc giữ gìn,bảo tồn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là việc làm có ý nghĩa hết sức to lớn và vô cùng cần thiết. 6 Tất cả những phân tích trên đây cho thấy, cần phải nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, đặc biệt là mối quan hệ giữa chúng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, nhằm có được những tri thức đúng đắn về vị trí, vai trò, ưu thế cũng như hạn chế của từng yếu tố, sự tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau giữa chúng... Trên cơ sở đó, đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Từ đó có cơ sở đề ra những giải pháp để tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp đạo đức, đảm bảo sự tôn nghiêm của luật pháp, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức, truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc, củng cố, giữ gìn ổn định, trật tự xã hội, bảo đảm, bảo vệ các quyền, tự do, các lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người. 1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam là một đề tài rất lớn, và tương đối phức tạp. Liên quan đến đề tài này, có nhiều công trình nghiên cứu ở những góc độ, mức độ và phạm vi khác nhau. Trong đó, bao gồm các công trình nhiên cứu về vai trò, giá trị xã hội của đạo đức; các công trình nghiên cứu về vai trò, giá trị xã hội của pháp luật; các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức.  Nhóm 1: Các công trình nghiên cứu về vai trò của đạo đức Có thể nói, có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Là một nội dung quan trọng của đạo đức học nên có thể nói, tất cả các giáo trình đạo đức học của các cơ sở đào tạo chuyên ngành triết học đều đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, vì giới hạn ở một giáo trình nên nhìn chung, vấn đề này được đề cập một cách hết sức khái quát. Cũng có khá nhiều công trình chuyên khảo chuyên sâu nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu sau đây: Cuốn Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là một công trình được biên soạn bởi một tập thể tác giả do GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn và PGS.TS Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên. Công trình là tập hợp các bài viết của các tác giả, đề cập đến nhiều vấn đề, trong đó chủ yếu đề cập vai trò của đạo đức trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường của nước ta, vấn đề giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường. Cuốn Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của TS Trịnh Duy Huy đề cập một cách cụ thể hơn về những giải pháp xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị 7 trường ở nước ta hiện nay. Cuốn Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội do GS.TSKH Huỳnh Khái Vinh chủ biên, đề cập các vấn đề về vai trò của lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội đối với việc xây dựng con người, vấn đề kế thừa và phát triển nếp sống, đạo đức và các giá trị truyền thống của dân tộc. Đặc biệt, cuốn sách dành một phần quan trọng phân tích kinh nghiệm và bài học của một số nước cho Việt Nam trong việc xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội. Có thể nói, đây là những bài học quí báu cho Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Cuốn Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội do PGS Trường Lưu chủ biên, tiếp cận vấn đề dưới góc độ văn hóa, cuốn sách đã dành những phần nhất định đề cập vấn đề đạo đức, lối sống và vai trò của đạo đức trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Cùng chung cách tiếp cận này có cuốn Văn hóa đạo đức, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam của PGS.TS Thành Duy. Cuốn Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay do TS Nguyễn Thế Kiệt chủ biên, cuốn sách tập trung nhận diện những tàn dư của đạo đức phong kiến và ảnh hưởng của nó đến tư duy và hành động của cán bộ, công chức nước ta hiện nay. Cùng chủ đề này có cuốn Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người Việt Nam hiện nay của TS Nguyễn Bình Yên. Công trình dành phần chủ yếu để phân tích những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức phong kiến trong xã hội Việt nam hiện nay, đó là tư tưởng địa vị, đẳng cấp, bệnh gia trưởng, gia đình chủ nghĩa, cục bộ, bản vị, trọng nam khinh nữ, coi thường lớp trẻ.... Sách cũng đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm đấu tranh khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức phong kiến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.  Nhóm 2: Các công trình nghiên cứu về vai trò của pháp luật Vai trò của pháp luật là một nội dung cơ bản của khoa học pháp lý, vì vậy vấn đề này được đề cập ở tất cả các giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật của các trường luật, tuy nhiên vấn đề luôn chỉ được đề cập ở mức độ hết sức khái quát. Các công trình chuyên khảo về vấn đề này cũng khá nhiều, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu sau đây: Trước hết đó là cuốn Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội của TS. Nguyễn Minh Đoan, cuốn sách phân tích khá sâu sắc về vai trò của pháp luật đối với nhà nước, đối với đời sống kinh tế - xã hội, đối với đường lối, chính sách của Đảng... Trong cuốn sách này, tác giả đã khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, pháp luật là công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, công cụ quản lý quan trọng, có hiệu quả nhất, tuy nhiên, nó không phải là công cụ quản lý duy nhất, công cụ quản lý vạn năng. Cuốn Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, những vấn đề lý 8 luận và thực tiễn của PGS.TS Lê Minh Tâm đề cập giá trị xã hội của pháp luật. Sách phân tích và luận giải khá sâu sắc để khẳng định rằng, pháp luật là sự biểu hiện của văn minh và văn hóa; là cơ sở để đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm, bảo vệ quyền, tự do dân chủ, lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xã hội, là nhân tố quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Cuốn Pháp luật, lối sống và văn hóa công sở của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan đề cập đến các vấn đề về lối sống theo pháp luật và những vấn đề ảnh hưởng đến lối sống theo pháp luật ở nước ta hiện nay. Sách cũng đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng lối sống theo pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Cuốn Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách con người của TS. Nguyễn Đình Đặng Lục, sách tập trung phân tích vai trò của pháp luật trong việc hình thành nhân cách người chưa thành niên, qua đó sách đề cập đến nội dung, hình thức, phương tiện giáo dục pháp luật cho người chưa thành niên.  Nhóm 3: Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, trong đó: Một là: Các giáo trình luật học, đạo đức học Có thể nói, các giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào tạo luật, giáo trình đạo đức học của các cơ sở đào tạo chuyên ngành triết học đều đề cập tới vấn đề này. Tuy nhiên, hầu hết các giáo trình này đều chỉ đề cập vấn đề này một cách rất khái quát, sơ lược. Hai là: Các bài báo, tạp chí Trên các tạp chí chuyên ngành như Nhà nước và pháp luật, Nghiên cứu lập pháp, Luật học, Triết học... có khá nhiều công trình của các tác giả đề cập tới vấn đề này. Tác giả HoàngThị Kim Quế có hàng loạt bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức: Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức với việc điều chỉnh hành vi con người trong quản lý xã hội (Tạp chí Đại học Quốc gia, chuyên đề khoa học xã hội, số 4/1997); Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/1999); Một số suy nghĩ về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2000); Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2002); Vấn đề kết hợp quản lý xã hội bằng pháp luật với giáo dục nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay (Tạp chí Triết học, số 12/2002); Những vấn đề hôm nay của pháp luật và đạo đức (Tạp chí Luật học số 7/2006)... Tác giả Trần Hậu Thành có bài viết Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp 9 luật (Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị, số 5/1998). Hai tác giả Lê Hoài Thanh và Trần Hậu Thành có bài Về quan hệ giữa pháp luật và đạo đức (Tạp chí Khoa học Chính trị, số 6/2000). Tác giả Hoàng Thị Hạnh có bài Góp phần tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật (Diễn đàn thông tin khoa học xã hội). Tác giả Thành Duy có bài Tư tưởng Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, đạo đức và lợi ích công dân (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1995)... Mặc dù đều là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, với dung lượng hạn chế của một bài tạp chí, nên nhìn chung các tác giả đều dừng lại ở việc phân tích một vài khía cạnh của vấn đề, không có điều kiện để giải quyết toàn diện các khía cạnh của nó. Ba là: Các đề tài nghiên cứu khoa học Trước hết là công trình nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia của tiến sĩ Hoàng Thị Kim Quế: "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay". Công trình nghiên cứu khá toàn diện các vấn đề như vị trí, vai trò, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội; tính cấp thiết khách quan của việc kết hợp pháp luật, đạo đức trong quản lý xã hội; việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức trên thực tế trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thể; trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Tuy nhiên, công trình vẫn chưa giải quyết được một cách triệt để những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Mặt khác, như chính tác giả chỉ rõ, công trình này mới chỉ bước đầu nghiên cứu những biểu hiện việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức ở một số lĩnh vực pháp luật. Tiếp theo là công trình nghiên cứu khoa học cấp khoa trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội của Thạc sỹ Nguyễn Quốc Việt với đề tài: “Bảo lưu những giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay”.Công trình đề cập đến vấn đề rất có ý nghĩa trong điều kiện hiện nay của nước ta, đó là việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong quá trình cải cách, đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền, hợp tác và hội nhập quốc tế. Tác giả đã luận giải các vấn đề như sự cần thiết phải bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện pháp luật; thực trạng bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống ở nước ta hiện nay... Tác giả cũng đề xuất nhiều giải pháp nhằm bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, do giới hạn ở phạm vi một công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở nên công trình này còn nhiều hạn chế: một là, công trình chỉ tiếp cận một khía cạnh rất hẹp của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức như tên của 10 công trình đã chỉ rõ; hai là, sự luận giải về sự cần thiết phải bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống chưa sâu sắc, bởi vậy, sẽ là khó thuyết phục khi tác giả muốn luật hóa tất cả các giá trị đạo đức truyền thống; ba là, phương pháp, cách thức bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống; các giải pháp nhằm bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống... trong công trình nhìn chung là còn khá đơn giản. Tại Trường đại học Luật Hà Nội cũng có hai công trình nghiên cứu khoa học cấp trường, đó là công trình của TS Nguyễn Minh Đoan với đề tài Những nguyên tắc của hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập, trong đó có đề cập nhóm nguyên tắc đạo đức; công trình của TS Nguyễn Quốc Hoàn với đề tài Hành vi pháp luật - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, trong đó có đề cập sự tương quan giữa hành vi pháp luật và hành vi đạo đức... Cũng cần phải kể đến đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp Tập quán và thực tiễn xét xử trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật và thực tiễn pháp luật. Đề tài được thực hiện bởi các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành khoa học pháp lý. Để thực hiện đề tài này, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp có chuyên đề thông tin khoa học Mối quan hệ giữa tập tục và pháp luật. Chuyên đề tập hợp bài viết của các tác giả là những người làm công tác thực tiễn tại các địa phương. Chuyên đề cung cấp những thông tin về thực tiễn áp dụng tập quán trong quá trình giải quyết các vụ việc cụ thể xảy ra trong thực tế. Các công trình này tuy không trực tiếp đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, nhưng ít nhiều nó đều có liên quan đến đề tài, bởi tập quán và đạo đức luôn có sự chồng lấn rất đáng kể, rất nhiều tập quán trong đời sống hàng ngày là các tập quán đạo đức. Bốn là: Các đề tài luận văn, luận án Nhiều luận văn tốt nghiệp đại học, cao học đã giải quyết về vấn đề này. Có thể kể đến như luận văn thạc sĩ của Hoàng Xuân Châu với đề tài Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Luận văn đã đề cập những khía cạnh của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, nhìn chung còn khá hạn chế. Tác giả luận án này cũng đã có dịp nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam với đề tài luận văn thạc sỹ Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam hiện nay. Luận văn đã được bảo vệ tháng 5.2003 tại Trường đại học Luật Hà Nội. Tuy nhiên, như tên đề tài đã chỉ rõ, luận văn không đề cập một cách cụ thể quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Vì giới hạn ở đề tài luận văn thạc sỹ, công trình chưa có điều kiện phân tích một cách sâu sắc, có hệ thống về vai trò của pháp luật, đạo đức trong 11 quản