Luận án Thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam hiện nay

Các công trình nghiên cứu đã đề cập và làm rõ được một số nội dung liên quan đến khái niệm, đặc điểm về tài sản, thu nhập và kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; đối tượng chịu sự kiểm soát về tài sản, thu nhập; việc công khai bản kê khai tài sản, thu nhập; xử lý người kê khai tài sản, thu nhập không trung thực và tài sản không chứng minh được nguồn gốc hợp pháp; về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập; vai trò của kiểm soát tài sản, thu nhập đối với công tác PCTN . Tuy nhiên, nhìn tổng thể, các công trình nghiên cứu mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn và hoàn thiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, mà chưa đề cập sâu, toàn diện đến việc thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, nhất là các nội dung liên quan đến: Khái niệm và các hình thức thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; các chủ thể có liên quan đến thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; nội dung thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn Đồng thời, các công trình nghiên cứu về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn cũng còn có một số vấn đề chưa thống nhất, như: (1) Về phạm vi người có chức vụ, quyền hạn cần phải kiểm soát tài sản, thu nhập: Có quan điểm cho rằng cần thu hẹp đối tượng kê khai tài sản, thu nhập, tập trung vào lãnh đạo cao cấp, những vị trí có nguy cơ tham nhũng cao, tránh việc ôm đồm quá nhiều nhưng lại thiếu nguồn lực trong việc kiểm soát các bản kê khai tài sản, thu nhập; bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng cần phải mở rộng diện đối tượng kê khai tài sản, thu nhập tới tất cả các đối tượng là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước; (2) Về tần xuất kê khai tài sản, thu nhập: Có quan điểm đề nghị tùy thuộc vào đối tượng có nghĩa vụ kê khai để quy định thời gian kê khai cho phù hợp; tuy nhiên, có quan điểm cho rằng cần có thời gian cố định cho việc kê khai thì các cơ quan quản lý mới có khả năng theo dõi, kiểm soát được việc kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; (3) Về việc công khai bản kê khai tài sản, thu nhập: Có quan điểm ủng hộ việc công khai bản kê khai tài sản, thu nhập, giúp tranh thủ sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự và nhân dân trong giám sát tờ khai, tăng cường tính minh bạch; tuy nhiên, có quan điểm cho rằng cần phải bảo đảm tính hài hòa tương đối giữa việc chống tham nhũng của cơ quan công quyền với quyền bí mật cá nhân của công dân; (4) Về loại tài sản phải kê khai: Có quan điểm cho rằng cần phải kê khai mọi loại tài sản, thu nhập kể cả tài sản, thu nhập phát sinh trong tương lai; tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, việc kê khai toàn bộ tài sản, thu nhập là bất khả thi mà chỉ nên đặt ra một ngưỡng nhất định đối với các loại tài sản phải kê khai.

pdf174 trang | Chia sẻ: Đào Thiềm | Ngày: 07/01/2025 | Lượt xem: 55 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để PCTN có hiệu quả thì cần phải kiểm soát được tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn đã và đang trở thành công cụ hữu hiệu trong cuộc chiến chống tham nhũng, được nhiều quốc gia áp dụng. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn lần đầu tiên được ghi nhận trong Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998, được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong Luật PCTN năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012) và Luật PCTN năm 2018. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 130/2020/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành quy định của Luật PCTN về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn đã và đang được tổ chức thực hiện và thực hiện trên thực tế, đạt những kết quả nhất định. Hàng năm, có khoảng 01 triệu người có chức vụ, quyền hạn thuộc diện phải kiểm soát tài sản, thu nhập. Việc thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác PCTN ở nước ta. Tuy nhiên, theo đánh giá của Chính phủ thì việc thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn vẫn còn hạn chế, nhất là trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập; theo dõi, xác minh bản kê khai 2 tài sản, thu nhập và biến động về tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Bản kê khai tài sản, thu nhập chưa được công khai tại nơi cư trú của người kê khai, làm hạn chế sự tham gia của người dân, các tổ chức dân sự trong giám sát tính trung thực của các bản kê khai. Số người được xác minh bản kê khai tài sản, thu nhập còn ít. Cơ quan chức năng mới chỉ xử lý cán bộ vi phạm, chưa xử lý được tài sản, thu nhập khi không giải trình được nguồn gốc hợp pháp; việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn còn rất chậm. Việc kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn vẫn còn hình thức, hiệu quả thấp; thực chất các cơ quan có thẩm quyền chưa kiểm soát được biến động về tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; chưa phát huy hiệu quả trong phòng ngừa tham nhũng, phát hiện, xử lý tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng; nhiều cán bộ, công chức vẫn lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để tham nhũng. Nguyên nhân là do quy định của pháp luật hiện hành về kiểm soát tài sản, thu nhập còn những bất cập, nhiều nội dung chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Do tác động của các yếu tố văn hóa, truyền thống và tâm lý của người dân Việt Nam. Tổ chức bộ máy, biên chế của các cơ quan có chức năng kiểm soát tài sản, thu nhập chưa được quan tâm kiện toàn; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức thiếu tự giác, ý thức chấp hành pháp luật kém. Cơ sở hạ tầng, phương tiện, kỹ thuật phục vụ cho việc quản l‎ý, khai thác cơ sở dữ liệu về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn chưa được hoàn thiện. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn chưa chặt chẽ. Vai trò, trách nhiệm của các tổ chức xã hội, người dân, báo chí trong thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn chưa được phát huy đúng mức. 3 Tại Việt Nam thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, qua đó đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào chuyên nghiên cứu về thực hiện pháp luật kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; nên chưa đề xuất được các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Từ thực tế trên, đặt ra yêu cầu đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam; trên cơ sở đó kiến nghị, đề xuất các giải pháp khắc phục những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bảo đảm thực hiện hiệu quả pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Nhất là, trong bối cảnh hiện nay Đảng và Nhà nước đang chỉ đạo đẩy mạnh công cuộc đấu tranh PCTN, trong đó có tăng cường kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn (Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X yêu cầu “Thực hiện nghiêm việc kê khai và xác minh bản kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của Luật PCTN”; Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI yêu cầu “Thực hiện nghiêm các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức; nghiên cứu ban hành quy định về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn”; Kết luận số 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị yêu cầu “Tiếp tục hoàn thiện quy định đảm bảo kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn”; Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị chuyên đề số 33-CT/TW ngày 03/01/2014 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn”; Văn kiện Đại hội đại 4 biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh “ Kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý”). Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam hiện nay” là yêu cầu khách quan, cấp bách cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn công cuộc đấu tranh PCTN ở Việt Nam hiện nay. 2. Về đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Về đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; các giải pháp bảo đảm thực hiện hiệu quả pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. 2.2. Về phạm vi nghiên cứu của đề tài Để phù hợp với đối tượng nghiên cứu và khuôn khổ của luận án Tiến sĩ Luật học, phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn trong không gian và thời gian như sau: 2.2.1. Giới hạn về thời gian Luận án nghiên cứu về pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam từ khi có Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998 đến nay. 2.2.2. Giới hạn về không gian Luận án nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn của Việt Nam, trong phạm vi toàn quốc; kinh nghiệm của một số quốc gia trong thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. 5 3. Về phương pháp nghiên cứu Luận án được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hệ thống quan điểm của Học thuyết Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và Pháp luật. Đồng thời kết hợp với những tư tưởng pháp lý tiến bộ trong lịch sử và hiện tại làm cơ sở lý luận để nghiên cứu, so sánh và vận dụng kinh nghiệm nước ngoài vào việc nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam. Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa để nghiên cứu các vấn đề lý luận; sử dụng phương pháp thống kê để thu thập các thông tin, số liệu thực tế phục vụ việc đánh giá thực trạng, nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu và luận chứng các giải pháp mà luận án nêu ra. Cụ thể: 3.1. Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgíc để nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài; khái quát những vấn đề lý luận, thực tiễn đã được nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài có liên quan đến đề tài; từ đó, nhấn mạnh những vấn đề đặt ra mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu (Phần tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài); 3.2. Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống hóa, khái quát hóa, phương pháp so sánh để nghiên cứu cơ sở lý luận thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; tìm hiểu việc thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn của một số nước trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiêm đối với việc thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của 6 người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam (Chương I); 3.3. Sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, phương pháp lịch sử và lôgíc để khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam (Chương II); 3.4. Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lôgíc, hệ thống hóa, khái quát hóa để đề xuất các quan điểm, luận chứng tính khả thi của các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam (Chương III). Ngoài ra luận án cũng đã kế thừa và phát triển kết quả những công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước nhằm làm rõ hơn những vấn đề chính của luận án. 4 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, để đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, góp phần nâng cao hiệu quả PCTN ở Việt Nam. 4.2. Nhiệm vụ của luận án: 4.2.1. Nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài liên quan đến kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; rút ra những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu; 4.2.2. Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, như: Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của 7 người có chức vụ, quyền hạn; chủ thể, nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; kinh nghiệm thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn của một số nước trên thế giới và giá trị tham khảo trong thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn Việt Nam. 4.2.3. Đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam. 4.2.4. Trên cơ sở đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng và thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, luận án đề xuất các giải pháp khắc phục những hạn chế, bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án 5.1. Luận án hệ thống, làm rõ hơn cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam; bước đầu đưa ra khái niệm, vai trò, nội dung của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; khái niệm, chủ thể, nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; góp phần hình thành khung lý thuyết về thực hiện pháp luật kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. 8 5.2. Luận án phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam; những kết quả, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của những kết quả, hạn chế trong thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam. 5.3. Đưa ra các quan điểm, đề xuất các giải pháp khắc phục hạn chế, bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa khoa học của luận án 6.1. Về mặt lý luận: Luận án sẽ làm rõ những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; đánh giá trung thực thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam; chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân; làm cơ sở cho việc kiến nghị những giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam hiện nay. 6.2. Về mặt thực tiễn: Luận án góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để các cơ quan có thẩm quyền tham khảo, vận dụng những kết quả nghiên cứu vào việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, những kiến thức khoa học của luận án sẽ có giá trị làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng pháp luật trong cả nước. 7. Kết cấu của luận án: 9 Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận án được trình bày với kết cấu 03 Chương: Chương I. Những vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Chương II. Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam. Chương III. Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. 10 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Tình hình nghiên cứu các vấn đề của đề tài Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn là một trong những giải pháp quan trọng để PCTN. Do vậy, vấn đề làm thế nào để kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn là chủ đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều chuyên gia, nhà khoa học. Vì vậy, nghiên cứu sinh đã nghiên cứu, hệ thống hóa các công trình nghiên cứu khoa học, các đề tài, đề án, các sách chuyên khảo, bài viết, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sỹ trong và ngoài nước có liên quan đến thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. 1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận thực hiện pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn - Về khái niệm kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn: Trong Đề tài khoa học cấp bộ “Kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn” do Cục PCTN của Thanh tra Chính phủ thực hiện (2012); tài liệu Hội thảo khoa học “Những định hướng lớn sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật PCTN” do Ủy ban tư pháp của Quốc hội tổ chức (2016); Luận án tiến sĩ luật học “Các tội phạm tham nhũng theo Luật hình sự Việt Nam” được Trần Văn Đạt bảo vệ năm 2012 tại Đại học Luật Hà Nội. Trong đề tài khoa học cấp bộ “Kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn” Cục PCTN của Thanh tra Chính phủ thực hiện (2012) đã đưa ra định nghĩa kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn “Là tổng thể những biện pháp, cách thức mà Nhà nước sử dụng để biết được biến động về tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn nhằm phát hiện, ngăn chặn việc người có chức 11 vụ, quyền hạn nhận tiền, của cải, vật chất trái quy định của pháp luật hoặc sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi tham nhũng”. Tại Hội thảo khoa học “Xây dựng thiết chế kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, người có chức vụ, quyền hạn” do Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức (2015), PGS.TS Vũ Công Giao trong bài “Kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn và khả năng áp dụng cho Việt Nam” đã đưa ra định nghĩa kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn là “Tập hợp các biện pháp mà các nhà nước sử dụng để biết được số lượng, nguồn gốc và giám sát biến động tài sản của người có chức vụ, quyền hạn”. - Về vai trò của kiểm soát tài sản, thu nhập: Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế Châu Âu (OECD) trong cuốn sách “Asset Declarations for Public Officials: A Tool to Prevent Corruption, Fighting Corruption in Eastern Europe and Central Asia” (2011) cho rằng kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn là công cụ mạnh mẽ để đạt được mục đích PCTN. Trong cuốn sách “Public Office, Private Interests: Accountability through Income and Asset Disclosure” (2012), Ngân hàng thế giới (WB) và Cơ quan của Liên hợp quốc về chống ma túy và tội phạm (UNODC) cho rằng kiểm soát tài sản, thu nhập không chỉ ngăn ngừa tham nhũng và xung đột lợi ích mà còn giúp phát hiện, điều tra, truy tố những công chức lợi dụng sự tín nhiệm của công chúng. - Về đối tượng kiểm soát tài sản, thu nhập: Cục PCTN, Thanh tra Chính phủ (2012) trong đề tài khoa học cấp bộ về “Kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn” cho rằng trên thế giới không có bất kỳ mô hình tối ưu nào cho mọi quốc gia về đối tượng kiểm soát tài sản, thu nhập, mà tùy thuộc vào chế độ chính trị, xã hội, khả năng thực tế mà mỗi quốc gia lựa chọn cho mình một mô hình áp dụng phù hợp. TS. Đỗ Văn Ngoan tại Hội thảo 12 “Những định hướng lớn sửa đổi toàn diện Luật PCTN”, do Ủy ban Tư pháp của Quốc hội thực hiện (2016) và PGS.TS Vũ Công Giao trong bài viết “Kinh nghiệm một số nước trong việc kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn”, đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị (số 06/2016) cho rằng cần thiết phải yêu cầu các chính trị gia công khai tài sản, thu nhập và các khoản thu nhập bổ sung hoặc lợi ích cá nhân để ngăn ngừa hành vi tham nhũng chính sách. Hội thảo, Bước đầu tiếp cận kết quả 10 năm thực hiện Luật PCTN qua một số lĩnh vực do Viện chính sách công và pháp luật - Tổ chức hướng tới minh bạch tổ chức (2016), PGS.TS Vũ Công Giao cho rằng việc lựa chọn đối tượng để kiểm soát tài sản, thu nhập cần phải tính đến nguồn lực bảo đảm, để kiểm soát chặt chẽ những đối tượng được lựa chọn. Hội thảo “Tham vấn về hoàn thiện cơ chế kê khai tài sản, kiểm soát và minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn”, do Thanh tra Chính phủ tổ chức (2016), TS Trần Văn Dũng trong bài “Việc phát hiện và xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung thực, không được kê khai hoặc không được giải trình một cách hợp lý” cho rằng cần phải giới hạn đối tượng cán bộ, công chức phải kê khai, tập trung chủ yếu vào các ngành, nhóm dễ tham nhũng nhất để tiện quản lý. Trong cuốn sách “Public Office, Private Interests: Accountability through Income and Asset Disclosure”, do Ngân hàng Thế giới (WB) và Cơ quan của Liên hợp quốc về chống ma túy và tội phạm (UNODC) thực hiện (2012) đã đưa ra các tiêu chí xác định đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập; khuyến nghị các quốc gia tập trung kiểm soát tài sản, thu nhập của lãnh đạo cao cấp và những vị trí có nguy cơ tham nhũng cao; sau đó mới mở rộng phạm vi áp dụng cho các đối tượng khác khi năng lực được nâng cao. 13 - Về tần xuất kê khai tài sản, thu nhập: Trong Đề tài khoa học cấp bộ “Kiểm soát thu nhậ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_thuc_hien_phap_luat_ve_kiem_soat_tai_san_thu_nhap_cu.pdf
  • pdfLuận án Tóm tắt (BV Tr).pdf
  • pdfNhững đóng góp mới (BV Tr).pdf
  • pdfNhững đóng góp mới (TA - BV Tr).pdf
  • pdfQuyêt định Hội đồng.pdf
  • pdfTieng Anh-Luận án Tóm tắt.pdf
Luận văn liên quan