Luận văn Biện pháp nâng cao huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Vĩnh Long

Cùng với sử phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa Đất nước, Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Vĩnh Long cũng đã góp phần không nhỏ làm cho tình hình kinh tế Vĩnh Long được cải thiện hơn rất nhiều. Trong 3 năm qua, Ngân hàng đã hoạt động tốt và hoàn thành vai trò của mình trong việc thu hút và tài trợ vốn cho nền kinh tế tỉnh nhà, đáp ứng nhu cầu của của người dân, tạo công ăn, việc làm, làm cho người nghèo thoát khỏi nghèo và người giàu trở nên giàu hơn. Qua quá trình phân tích “ Biện pháp nâng cao huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín ” cho thấy vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu và chiếm tỷ lệ cao trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, nó góp phần cung cấp vốn cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp cho người có tiền nhàn rỗi có thêm thu nhập, góp phần phát triển kinh địa phương. Từ đó, Ngân hàng đề ra phương hướng mục tiêu của mình nhằm nâng cao huy động vốn, đa dạng hóa các hình thức huy động cũng như các hình thức cho vay, nâng cao chất lượng dịch vụ, cạnh tranh với các Ngân hàng cùng địa bàn và luôn hướng tới mục tiêu “ Sacombank luôn hướng đến sự hoàn thiện vì khách hàng ” .

doc93 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2194 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp nâng cao huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Vĩnh Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại: Trong nền kinh tế hàng hóa, có nhiều doanh nghiệp, nhiều đơn vị tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh trong nhiều ngành, nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau. Có ngành tạo ra sản phẩm hàng hóa cho xã hội như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, có ngành chỉ làm nhiệm vụ lưu thông phân phối, lại có ngành chỉ thuần túy cung cấp dịch vụ (vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng). Trong đó các Ngân hàng Thương mại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Tất cả đều góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. Hoạt động của các Ngân hàng Thương mại trong nhiều lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng được coi là một định chế tài chính đặc biệt của nền kinh tế thị trường. Ngân hàng Thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hành hóa. Sự phát triển hệ thống Ngân hàng Thương mại đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, ngược lại kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất của nó là kinh tế thị trường thì Ngân hàng Thương mại cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Luật tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua vào ngày 12 tháng 12 năm 1997, định nghĩa: Ngân hàng Thương mại là một loại hình tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Luật này còn có định nghĩa: Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngân hàng Thương mại tồn tại dưới nhiều dạng sở hữu khác nhau: Ngân hàng Thương mại Quốc doanh. Ngân hàng Thương mại tư nhân. Ngân hàng Thương mại liên doanh. Ngân hàng Thương mại cổ phần. Ngân hàng Thương mại chi nhánh nước ngoài. …. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng  Ngân hàng Thương mại là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế này mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn tín dụng to lớn để có thể cho vay phát triển kinh tế. 1.2. Quá trình ra đời và phát triển của Ngân hàng Thương mại: Ngày nay, trong mỗi quốc gia, toàn bộ hệ thông Ngân hàng đã được định hình thành hai cấp rõ rệt gồm Ngân hàng Trung ương (Central Bank) hay còn gọi là Ngân hàng Nhà nước và hệ thống Ngân hàng Thương mại (Commercial Bank). Nhưng từ xa xưa hàng ngàn năm trước công Nguyên, khi mới hình thành manh nha nghề Ngân hàng, cho đến tận thế kỷ thứ XVIII thì không có sự phân biệt đó: các Ngân hàng hoạt động độc lập và đơn điệu, không có mối liên hệ với nhau, những hoạt động đó đều giống nhau về nội dung và tính chất, bao gồm nhận ký thác, cho vay, chiết khấu, nghĩa là trong thời kỳ từ thế kỷ thứ XVIII trở về trước chỉ tồn tại trong nền kinh tế một hệ thống Ngân hàng duy nhất – Hệ thống Ngân hàng Trung gian (Intermediary Bank System). Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa hệ thống Ngân hàng đã từng bước phát triển, và hoàn thiện dần. Trong sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống Ngân hàng chúng ta thấy rõ mối liên hệ hữu cơ giửa sự phát triển của hệ thống Ngân hàng với sự phát triển của hệ thống tiền tệ. Chính hệ thống lưu thông tiền tệ bắt đầu từ hình thái tiền đúc bằng kim loại quý đã làm nảy sinh nghề Ngân hàng cách đây hàng ngàn năm để từ đó qua nhiều thế kỷ, hệ thống Ngân hàng đã được định hình. Các Ngân hàng ra đời ở Ý như: Istituto Bancario Sanpaolo di Torino (1563), Banco di Napoli (1591); ở Hà Lan (Amsterdam Bank) (1600); ở Đức (Nuremberg Bank) (1621); Ngân hàng Anh (Bank of England) (1694), Ngân hàng Anh là Ngân hàng cổ phần nhất thế giới lúc bấy giờ và trở thành Ngân hàng Trung ương của Anh quốc vào 1947. Từ cuối thế kỷ thứ 17 cho đến giữa thế kỷ thứ 18 hàng loạt các Ngân hàng cổ phần tư nhân được thành lập ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ, còn ở Châu Á thì các Ngân hàng ra đời khoảng thế kỷ 19 trở về sau (Trung Quốc 1896, Đông Dương thuộc địa 1875…). Ở Việt Nam, thời phong kiến chưa có các tổ chức tín dụng, tuy nhiên có tồn tại vài tổ chức cho vay nặng lãi, các nhà cầm đồ, nhưng nhìn chung, chưa hình thành hệ thống tín dụng như ở các nước. Mãi đến năm 1875 mới thành lập Ngân hàng Liên bang Đông Dương thuộc Pháp (Ngân hàng Đông Dương). Đây là Ngân hàng đầu tiên thành lập ở Việt Nam – để thực hiện việc phát hành tiền, đồng thời thực hiện hoạt động của một Ngân hàng Thương mại. Năm 1954 Ngân hàng Đông Dương chấm dứt sự tồn tại và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, thì Nhà nước Việt Nam cũng từng bước xây dựng hệ thống Tài chính – Ngân hàng để phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngày 6 tháng 5 năm 1951 thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (National Bank of Viet Nam) theo sắc lệnh số 15/LCT của Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đến 1961 đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (State Bank of Viet Nam – SBV) cho đến nay. Từ ngày thành lập (6/5/1951) đến 26/3/1988, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động theo mô hình Ngân hàng một cấp: Vừa thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng Trung ương (Central Bank) vừa thực hiện các hoạt động của một Ngân hàng Thương mại (Commercial Bank). Từ tháng 4 năm 1998 đến nay, hệ thống mô hình Ngân hàng một cấp chuyển đổi thành hệ thống Ngân hàng hai cấp, trong đó Ngân hàng cấp một là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ thực hiện chức năng, nhiệm vụ vốn có của Ngân hàng Trung ương, còn Ngân hàng cấp hai, bao gồm các Ngân hàng Thương mại, các tổ chức tín dụng khác, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng. 1.3. Chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Thương mại: 1.3.1. Tạo tiền: Người ta cho rằng “một trong những chức năng chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại là tạo và hủy tiền”, liên quan đến các mục đích của các Ngân hàng Thương mại là tìm kiếm lợi nhuận, thông qua các hoạt động kinh tế cụ thể. Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, các Ngân hàng Thương mại không thể không quan tâm, như là một yêu cầu cho chính sự tồn tại và phát triển của mình là tạo tiền. Tạo tiền, cùng với các chức năng khác của Ngân hàng Thương mại hợp thành một hệ thống chức năng, phản ánh các chức năng của Ngân hàng Thương mại. Chức năng này được thực hiện qua các hoạt động tín dụng và đầu tư trong mối liên hệ chặt chẽ với Ngân hàng Trung ương của mỗi nước. Ý nghĩa kinh tế của chức năng tạo tiền của các Ngân hàng Thương mại phản ánh trước hết nhu cầu bên trong của chính hệ thống và trong từng Ngân hàng Thương mại riêng lẻ. Điều hiển nhiên ai cũng phải thừa nhận là để có thể hoạt động và đặc biệt cho sự phát triển các hoạt động tín dụng và đầu tư của các Ngân hàng Thương mại, yêu cầu bản thân các Ngân hàng Thương mại, bằng các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống phải tạo điều kiện cho việc tăng trưởng nguồn vốn, phù hợp với yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, năng lực của hệ thống Ngân hàng Thương mại trong việc tạo tiền không chỉ đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân các Ngân hàng Thương mại mà còn mang ý nghĩa kinh tế to lớn: với một hệ thống tín dụng năng động có vai trò cực kỳ quan trọng như người mở đầu, người tham gia và có khi là người nâng đỡ và quyết định đối với mọi quá trình sản xuất. Nếu tín dụng không tạo ra được tiền nhằm mở ra các quy trình sản xuất, và với các hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp không thể tiến hành trôi chảy các quá trình sản xuất và do đó không tạo được nguồn tích lũy cần thiết cho chính bản thân Ngân hàng Thương mại và cho nền kinh tế. Đặc biệt cần lưu ý rằng, trong mỗi một doanh nghiệp và mỗi một thành viên trong xã hội, quá trình tích lũy và sử dụng vốn luôn diễn ra không giống nhau, lúc tạm thời thừa và có lúc xuất hiện nhu cầu bổ sung vốn. Góp phần khắc phục tình hình này, vai trò của các Ngân hàng Thương mại chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm sử dụng tốt nhất vốn tạm thời thừa của các doanh nghiệp và cá nhân và hơn nữa là của nền kinh tế và cũng đồng thời bổ sung kịp thời nhu cầu vốn khi thiếu. Mặc khác, xét ở mức độ nền kinh tế, bao giờ và lúc nào cũng phải tôn trọng một quy tắc quan trọng là cung tiền tệ phải vừa đủ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng kinh tế dự kiến. Nếu tiền cung ứng tăng quá nhanh, tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện và những hậu quả của nó đương nhiên nền kinh tế phải gánh chịu. Trong ý nghĩa đó, các Ngân hàng Thương mại có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chính sách này, trong mối quan hệ với hệ thống Ngân hàng Trung ương ở mỗi nước. Tín dụng Ngân hàng trong trường hợp này thực hiện vai trò của nó như là một kênh dẫn để thông qua đó, tiền cung ứng được tăng lên hoặc giảm xuống phù hợp với chính sách tiền tệ quốc gia. 1.3.2. Thanh toán: Bên cạnh chức năng tạo tiền, các Ngân hàng Thương mại còn thực hiện một chức năng quan trọng khác là đưa ra các cơ chế thanh toán và thực hiện trong thực tế chức năng đó. Ở các nước phát triển và các nước đang phát triển, phần lớn công tác thanh toán được thực hiện thông qua séc và phần lớn séc ở trong nước được thực hiện bằng phương pháp bù trừ, thông qua hệ thống Ngân hàng Thương mại. Nếu việc phát hành séc để rút tiền từ tài khoản tiền gửi và trong cùng một Ngân hàng thì chỉ là một động tác làm chuyển dịch vốn từ tài khoản này sang một tài khoản khác và chỉ nếu 2 Ngân hàng trong cùng một địa bàn, buộc phải được thực hiện thông qua thanh toán bù trừ. Đương nhiên, quá trình này sẽ trở nên phức tạp, tốn thời gian và chi phí giao dịch, khi việc thanh toán bù trừ lại diễn ra giữa các Ngân hàng thuộc các địa bàn khác nhau trong nước. Một công việc phức tạp như vậy chỉ có thể được tiến hành thông qua các Ngân hàng đại lý của họ hoặc bằng phương pháp thanh toán bù trừ qua Ngân hàng Nhà nước tại đó, về phương pháp thanh toán cũng giống như thông qua các Ngân hàng đại lý. Thực ra, khi mà hệ thống Ngân hàng đại lý phát triển, khối lượng thanh toán bù trừ thông qua Ngân hàng Nhà nước sẽ giảm đi một cách tương ứng. Ở Mỹ, trong những năm gần đây, nhờ sự phát triển của các Ngân hàng đại lý, việc bù trừ thông qua hệ thống dự trữ liên bang khu vực chỉ chiếm không đầy một nửa trong hệ thống thanh toán. Trong quá trình hiện đại hóa các phương pháp công nghệ, các Ngân hàng Thương mại từng bước trang bị đầy đủ các máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật khác. Do đó sẽ từng bước làm cho quá trình thanh toán bù trừ được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt chi phí và đạt độ chính xác cao. Trong các công nghiệp hóa, hiện tại có những đổi mới quan trọng và được đưa ra ứng dụng, theo hướng hoạt động Ngân hàng không dùng séc hoặc mở rộng hơn, nền kinh tế không dùng séc, nghĩa là họ sử dụng hình thức chuyển tiền bằng điện tử và chính điều này đưa đến việc không sử dụng séc Ngân hàng, vốn đã từng được sử dụng rộng rãi và trên cơ sở đó loại khỏi các công việc có liên quan trong việc phát hành sử dụng séc. Các nước nói trên đã đưa vào thực nghiệm một hệ thống sử dụng thẻ, giống như thẻ tín dụng đang được dùng trong các cửa hàng bán lẻ. Từ đó họ có thể tiến hành nối mạng các máy tính của các Ngân hàng Thương mại trong nước nhằm thực hiện việc chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người bán một cách dễ dàng và nhanh chóng. Nét thuận lợi cơ bản của hệ thống này là với một hệ thống vi tình đặt trong các Ngân hàng, thẻ tín dụng có thể được dùng để rút tiền từ một tài khoản nhất định, thực hiện việc ký thác, thanh toán công nợ và chuyển giữa tài khoản tiết kiệm và tài khoản séc của cùng một chủ tài khoản. 1.3.3. Huy động tiết kiệm: Trong số các dịch vụ của Ngân hàng Thương mại, dịch vụ có tầm quan trọng đặc biệt đối với tất cả dân cư trong nước thuộc các khu vực của nền kinh tế là bằng cách đáp ứng những điều kiện và các công cụ thuận lợi cho việc chuyển và rút tiền tiết kiệm một cách dễ dàng, nhằm thực hiện các mục đích có tính chất xã hội rộng lớn. Vì thế mà huy động tiết kiệm đã trở thành một chức năng quan trọng của Ngân hàng Thương mại nhằm tạo điều kiện cho người gửi tiền có được các khoản thu nhập danh nghĩa thông qua lãi suất với mức độ an toàn và hình thức thanh khoản cao. Với số vốn huy động được, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nhằm mở rộng khả năng sản xuất và vào các mục đích cá nhân khác. Phần lớn tiền gửi tiết kiệm đều được thực hiện thông qua hệ thống Ngân hàng Thương mại. 1.3.4. Mở rộng tín dụng: Chức năng chủ yếu và quan trọng bậc nhất của Ngân hàng Thương mại là mở rộng tín dụng, đương nhiên với các điều kiện và nguyên tắc tín dụng, với các khách hàng đáng tin cậy. Chức năng tín dụng của các Ngân hàng Thương mại được hình thành từ rất sớm, ngay từ khi hình thành các Ngân hàng Thương mại. Trong thời kỳ này, những người tổ chức các Ngân hàng Thương mại đã luôn tìm kiếm các cơ hội để tiến hành cho vay, coi đó như là một nhu cầu chủ yếu trong việc duy trì và mở rộng hoạt động của mình. Thông qua công tác tín dụng, các Ngân hàng Thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Các nhà kinh tế thường cho rằng, việc cung ứng vốn tín dụng được coi như là việc thực hiện một trong số sản phẩm của các Ngân hàng Thương mại cùng với các sản phẩm khác. Tuy nhiên xét trên ý nghĩa thực sự của sản phẩm, chúng ta có thể coi đó như là một “sản phẩm đường vòng” hoặc “sản phẩm gián tiếp”, khi đem so sánh với những sản phẩm trực tiếp mà ở đó, sản phẩm đưa ra tiêu dùng được tạo ra bắt nguồn từ việc sử dụng trực tiếp lao động, đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Khác với sản phẩm trực tiếp, việc cung ứng vốn tín dụng Ngân hàng cũng tạo ra khả năng hình thành sản phẩm có thể tính toán được, giống như công nghiệp thức ăn phải qua thu hoạch và chế biến. Với ý nghĩa của việc so sánh như thế, người ta cho tín dụng Ngân hàng cung ứng cho người dùng cần vốn để mua, chế biến, tổng hợp và cất trữ sản phẩm để sau đó bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất nói trên, từ người sản xuất đến người buôn bán, đến người bán lẻ cuối cùng, đến người tiêu dùng, tín dụng ngân hàng đã tạo ra khả năng thực hiện toàn bộ quá trình kinh tế, cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng: người nông dân nhờ có điều kiện được vay vốn họ có thể mua hạt giống, thức ăn, phân bón và các nhu cầu cần thiết khác cho việc thu hoạch và trồng trọt, tín dụng ngân hàng còn tạo ra cho họ khả năng mua sắm vật tư, thiết bị, máy móc và thuê mướn lao động. Các cửa hàng bán buôn và bán lẻ có khả năng dự trữ và vận chuyển hàng hóa đến tay người tiêu dùng không thể không có yếu tố vốn tín dụng được các Ngân hàng Thương mại cung ứng cho chính các xí nghiệp sản xuất và ngay cả đối với các xí nghiệp vận tải. Cuối cùng bên cạnh các hoạt động nhằm tài trợ cho nông nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp, Ngân hàng Thương mại tạo điều kiện cho người tiêu dùng thông qua quỹ tín dụng tiêu dùng. Quá trình này được thực hiện bằng việc Ngân hàng Thương mại mở rộng tín dụng tiêu dùng cho việc mua nhà, xe cộ và các trang thiết bị khác. Bên cạnh tín dụng ngắn hạn, Ngân hàng Thương mại còn thực hiện tín dụng đầu tư nhằm mở rộng và nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, cho chính phủ vay trong trường hợp ngân sách bị thiếu hụt, thông qua việc mua các chứng khoán tài chánh công cộng. 1.4. Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng Thương mại: - Nghiệp vụ cho vay. - Nghiệp vụ cho thuê tài chính. - Nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu. - Nghiệp vụ bảo lãnh. - Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ thanh toán và ủy thác. - …. 1.5. Khái niệm về huy động vốn: Huy động vốn là lượng tiền huy động từ các hoạt động tín dụng như nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng từ có giá, vay của các ngân hàng khác, vay của ngân hàng Trung ương. Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại, thực chất là tài sản bằng tiền của các chủ sở hữu mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng nhưng với nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng yêu cầu. 1.6. Sự cần thiết của nghiệp vụ huy động vốn: Trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng Thương mại đóng vai trò “cầu nối” giữa đơn vị thừa vốn và đơn vị thiếu vốn. Ngân hàng thực hiện chuyển vốn từ người thừa vốn đến người thiếu vốn để tài trợ dự án đầu tư sản xuất, kích thích quá trình luân chuyển vốn để tái sản xuất mở rộng. Ngân hàng là môi giới giữa người gửi tiền và người vay tiền, thúc đẩy kinh tế phát triển. Việc huy động vốn vừa để cho vay vừa điều chỉnh tổng phương tiện thanh toán tránh áp lực lạm phát. Huy động vốn là họat động chủ yếu và thường xuyên của Ngân hàng thương mại, vì họat động kinh doanh Ngân hàng không thể dựa vào nguồn vốn của mình mà phải dựa vào nguồn vốn huy động trên thị trường. Khi Ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ huy động vốn để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư tức là tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, cung ứng các dịch vụ cần thiết cho nền kinh tế. Tuy nghiệp vụ huy động vốn không trực tiếp mang lại lợi nhuận nhưng nó là nghiệp vụ rất quan trọng. Không có nghiệp vụ huy động vốn xem như không có họat động của Ngân hàng Thương mại. Như chúng ta đã biết, một Ngân hàng Thương mại khi được cấp phép thành lập phải có vốn điều lệ theo quy định. Tuy nhiên, vốn điều lệ chỉ đủ tài trợ cho tài sản cố định như: trụ sở, máy móc thiết bị…chứ không đủ để Ngân hàng thực hiện cấp tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng khác. Để có vốn phục vụ cho các họat động này Ngân hàng phải huy động vốn từ khách hàng. Do đó, nghiệp vụ huy động vốn rất quan trọng đối với Ngân hàng cũng như đối với khách hàng. 1.6.1. Đối với Ngân hàng thương mại: Nghiệp vụ huy động vốn góp phần mang lại nguồn vốn cho Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Không có nghiệp vụ huy động vốn, Ngân hàng thương mại sẽ không có đủ nguồn vốn tài trợ cho họat động của mình. Mặt khác, thông qua nghiệp vụ huy động vốn, Ngân hàng thương mại có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với Ngân hàng. Từ đó, Ngân hàng Thương mại có các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Có thể nói nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết “đầu vào” của Ngân hàng. 1.6.2. Đối với khách hàng: Nghiệp vụ huy động vốn không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối dới Ngân hàng mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với khách hàng. Đối với khách hàng, nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho họ một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lợi, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Mặt khác, nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để họ cất trữ và tích lũy vốn nhàn rỗi. Cuối cùng, nghiệp vụ huy động vốn giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận các dịch vụ của Ngân hàng như dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng, dịch vụ tín dụng cần vốn để sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng. 1.7. Các hình thức huy động vốn: 1.7.1. Vốn tiền gửi: 1.7.1.1. Tiền gửi từ các tổ chức kinh tế: Là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế gửi tại Ngân hàng. Nó bao gồm một bộ phận vốn tiền tạm thời nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng cho những mục tiêu định sẵn vào một thời điểm nhất định. Các tổ chức kinh tế thường gửi tiền vào Ngân hàng dưới các hình thức sau: a.Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán): Là loại tiền gửi mà khi gửi vào khách hàng gửi tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào mà không cần báo trước cho Ngân hàng và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. b. Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền vào có sự thoả thuận về thời hạn rút vốn giữa Ngân hàng và khách hàng. 1.7.1.2. Tiền gửi của dân cư: Là một bộ phận thu nhập bằng tiền của dân cư tại Ngân hàng. Tiền gửi của dân cư bao gồm: a.Tiền gửi tiết kiệm: Là khoả
Luận văn liên quan