Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa qua đã để lại cho dân tộc ta nhiều bài học kinh
nghiệm quí giá. Trong đó, bài học về xây dựng hậu phương kháng chiến có ý nghĩa quan trọng.
Như V.I. Lênin từng nói: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh, phải có một hậu
phương được tổ chức vững chắc”[49, tr. 90].
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, có một nội dung quan trọng là vấn đề căn cứ địa và hậu
phương. Căn cứ địa là nơi đứng chân xây dựng, là nguồn cung cấp, tiếp tế, là bàn đạp tiến công
của các lực lượng vũ trang cách mạng trong khởi nghĩa vũ trang. Hậu phương là chỗ dựa, là nguồn
chi viện nhân lực, vật lực và cổ vũ về tinh thần cho tiền tuyến đánh giặc, là nhân tố thường xuyên
quyết định thắng lợi của chiến tranh.
112 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 4354 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Căn cứ địa cách mạng ở củ chi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thu
CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở CỦ CHI
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HÀ MINH HỒNG
Thaønh phoá Hoà Chí Minh - 2009
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa qua đã để lại cho dân tộc ta nhiều bài học kinh
nghiệm quí giá. Trong đó, bài học về xây dựng hậu phương kháng chiến có ý nghĩa quan trọng.
Như V.I. Lênin từng nói: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh, phải có một hậu
phương được tổ chức vững chắc”[49, tr. 90].
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, có một nội dung quan trọng là vấn đề căn cứ địa và hậu
phương. Căn cứ địa là nơi đứng chân xây dựng, là nguồn cung cấp, tiếp tế, là bàn đạp tiến công
của các lực lượng vũ trang cách mạng trong khởi nghĩa vũ trang. Hậu phương là chỗ dựa, là nguồn
chi viện nhân lực, vật lực và cổ vũ về tinh thần cho tiền tuyến đánh giặc, là nhân tố thường xuyên
quyết định thắng lợi của chiến tranh.
Tiếp thu học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác-Lênin và kế thừa truyền thống đấu tranh chống
ngoại xâm của cha ông ta trong lịch sử, Đảng ta luôn đặt vấn đề xây dựng hậu phương lên hàng
quan trọng bậc nhất, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, nên đã nhân lên gấp
bội sức mạnh của một dân tộc nhỏ bé, kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, nhưng đủ sức đánh bại kẻ
thù là một cường quốc. Một trong những chìa khóa tạo nên sức mạnh của hậu phương chiến tranh
Việt Nam là vấn đề xây dựng căn cứ địa. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn khởi nghĩa
phải có căn cứ địa, muốn kháng chiến phải có hậu phương” [28, tr. 360].
Từ thực tiễn Việt Nam – một nước đất không rộng, người không đông, nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu phải chống lại những tên đế quốc có nền công nghiệp và khoa học kỹ thuật phát
triển, có tiềm lực kinh tế và quân sự to lớn, Hồ Chí Minh xác định: “thắng lợi phải đi đôi với
trường kỳ, kháng chiến càng lâu dài và ác liệt, càng phải huy động cao nhất sức người, sức của
của căn cứ địa, hậu phương. Vì vậy, nhất thiết phải xây dựng căn cứ, hậu phương vững mạnh,
toàn diện về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa” [28,
tr. 378].
Trên cơ sở lý luận đó, căn cứ địa đã được xây dựng và phát triển mạnh mẽ, rộng khắp toàn
miền Nam, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trong cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, miền Đông Nam Bộ là chiến trường tranh chấp
chính giữa ta và địch. Nhưng có lẽ Củ Chi là nơi được địch chú ý hơn hết vì “cái vị trí đặc biệt, cái
thế đứng lợi hại của Củ Chi về mặt quân sự đối với sự sống còn của chế độ Sài Gòn” [84, tr. 18].
Vì vậy, trong suốt 21 năm, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã dồn về đây những nỗ lực cao nhất để đè
bẹp cuộc kháng chiến. Nhưng cuối cùng, lực lượng kháng chiến đã giành thắng lợi. Trong thắng
lợi đó có vai trò to lớn của căn cứ địa Củ Chi với tư cách là hậu phương tại chỗ. Vậy, căn cứ địa
Củ Chi đã được xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò như thế nào trong cuộc kháng chiến trên địa
bàn? Đã có một số công trình nghiên cứu lịch sử quân sự nói chung và về căn cứ địa ở Củ Chi nói
riêng đề cập đến vấn đề này, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào phản ánh được toàn diện,
có hệ thống căn cứ địa ở Củ Chi trong kháng chiến chống Mỹ. Là người con của Củ Chi, đang
giảng dạy Lịch Sử cho thế hệ trẻ, bản thân tôi thấy cần thiết đi sâu tìm hiểu về vấn đề này nhằm
góp phần làm rõ hơn một mảng quan trọng của lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên
địa bàn mình đang sinh sống. Qua đó, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, kiên cường
chống giặc ngoại xâm của dân tộc cho thế hệ trẻ ngày nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do tầm quan trọng của vấn đề hậu phương – căn cứ địa trong chiến tranh nên đề tài này đã
được sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi của các lãnh tụ, tướng lĩnh, các cơ quan nghiên cứu khoa
học, các nhà khoa học Những tác phẩm, bài viết, luận ánđề cập đến vấn đề căn cứ địa ngày
càng nhiều hơn, nội dung sâu sắc hơn.
Trong các tác phẩm “Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta”, (Nhà xuất bản Sự Thật,
Hà Nội, 1970) và “Đường lối quân sự của Đảng là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của chiến tranh
nhân dân ở nước ta” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1973), Đại tướng Võ Nguyên
Giáp trình bày về căn cứ địa dưới góc độ lý luận, giải quyết một số vấn đề: Khái niệm căn cứ địa,
các hình thức phát triển từ thấp đến cao của căn cứ địa, cơ sở để xây dựng và vai trò của căn cứ địa
trong chiến tranh giải phóng.
Sau năm 1975, do nhu cầu bảo vệ tổ quốc, đề tài căn cứ địa được tiếp tục nghiên cứu trên cả
hai bình diện: lý luận, tổng kết và viết lịch sử.
Về lý luận, xuất hiện nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài quân đội, đáng chú
ý là các bài của nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng: “ Vài suy nghĩ về hậu phương chiến tranh nhân
dân Việt Nam” (Tạp chí lịch sử quân sự số 3 năm 1993) và của nhà nghiên cứu Sử học Văn Tạo: “
Căn cứ địa cách mạng – truyền thống và hiện tại” (Tạp chí lịch sử quân sự số 4 năm 1995). Các
bài viết này tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận về căn cứ địa như: khái niệm, nguồn gốc, tính
chất, đặc điểm nêu bật những đặc trưng của căn cứ địa ở Việt Nam nói chung và trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ nói riêng.
Về tổng kết, có một số công trình quan trọng. Tổng kết chung của cả nước có sách: “ Hậu
phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 – 1975) ( Bộ quốc phòng – Viện lịch sử quân sự
Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997), sách “ Hậu phương lớn, tiền tuyến lớn
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) (Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, Hà Nội,
2005)Bên cạnh đó có sách “ Tổng kết công tác hậu cần chiến trường Nam Bộ - Cực Nam Trung
Bộ (B2) trong kháng chiến chống Mỹ” (Tổng cục hậu cần, 1986) có liên quan nhiều đến vấn đề
căn cứ.
Ngoài các tổng kết chung, một số căn cứ địa trên địa bàn miền Đông Nam Bộ cũng được quan
tâm, nghiên cứu trong các công trình tổng kết hoặc viết lịch sử như: “Chiến khu Rừng Sác”, “Lịch
sử Chiến khu Đ”,Riêng cuốn sách “Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ (1945 – 1954)” của tác giả
Hồ Sơn Đài (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1996) và luận án tiến sĩ lịch sử “ Căn cứ địa
ở miền Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)” của Trần Thị Nhung (năm
2001) đã nghiên cứu một cách khái quát và có hệ thống về toàn bộ căn cứ địa miền Đông Nam Bộ
trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đem lại những kiến thức bổ ích và những bài học về
phương pháp cho việc nghiên cứu.
Qua đó, có thể thấy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, tác phẩmđề cập đến một số mặt
lý luận và thực tiễn của việc xây dựng căn cứ địa ở các thời kỳ và các địa phương cụ thể. Qua các
nghiên cứu này, các tác giả đã lý giải về khái niệm căn cứ địa, về chức năng hoạt động, nội dung
xây dựng và vai trò của căn cứ địa đối với sự nghiệp kháng chiến nói chung và kháng chiến chống
Mỹ nói riêng, đưa ra một số đặc trưng của căn cứ địa ở Việt Nam, các kiến thức về một số căn cứ
địa cụ thể.
Riêng về Củ Chi, có một số sách, tài liệu có đề cập đến đề tài này như: Sách “Lịch sử Sài Gòn
- Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến” (1945- 1975) (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1994);
sách “ Sơ thảo lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Củ Chi
( 1930-1975)” (Ban chấp hành Đảng bộ huyện Củ Chi, 1985) và sách “ Lịch sử lực lượng vũ trang
nhân dân huyện Củ Chi (1945- 2005)” (Ban chỉ huy quân sự huyện Củ Chi, Nhà xuất bản Quân
đội nhân dân, 2006), sách “ Bến Dược – vùng đất lửa” của tác giả Nguyễn Văn Tào (Nhà xuất bản
Văn Nghệ, thành phố Hồ Chí Minh, 1994), sách “Củ Chi - huyện anh hùng” của tác giả Phạm
Cường ( Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh). Năm 2008, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Củ
Chi xuất bản sách “ Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của đảng bộ và nhân dân huyện Củ
Chi” (Nhà xuất bản Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh)Các công trình trên đã phán ánh khá
đầy đủ, toàn diện về cuộc kháng chiến chống Mỹ của Đảng Bộ và nhân dân Củ Chi nói riêng, của
quân khu Sài Gòn – Gia Định nói chung trên địa bàn Củ Chi. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu về căn cứ địa ở Củ Chi một cách toàn diện và có hệ thống. Với luận văn này, tôi sẽ tiếp
tục quá trình tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về căn cứ địa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước trên địa bàn Củ Chi.
3. Ðối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, tôi tập trung nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và các hoạt động
chức năng của căn cứ địa ở Củ Chi trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Từ đó, rút
ra những đặc điểm và đánh giá vai trò của nó đối với tiến trình chung của cuộc kháng chiến.
Phạm vi thời gian nghiên cứu được tính từ sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết đến khi
chính quyền Sài Gòn sụp đổ và miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Không gian đề cập của luận văn là vùng đất Củ Chi - huyện ngoại thành của thành phố Hồ Chí
Minh ngày nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là lý luận về cách
mạng giải phóng dân tộc và căn cứ địa để làm cơ sở nghiên cứu. Về phương pháp chuyên ngành,
luận văn vận dụng phương pháp lịch sử là chủ yếu, kết hợp với phương pháp lôgic để dựng lại
toàn bộ quá trình hình thành, phát triển và các hoạt động chức năng của căn cứ địa ở Củ Chi với tất
cả những diễn biến, sự kiện điển hình một cách chân thực như nó từng có.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp liên ngành, tiếp xúc
các nhân chứng lịch sử, phương pháp so sánh lịch sử, phương pháp tổng hợp, trên cơ sở khảo cứu
các nguồn tư liệu để nghiên cứu và trình bày luận văn.
5. Ý nghĩa và đóng góp của luận văn
Trên cơ sở tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu trước, luận văn góp phần dựng
lại toàn bộ quá trình hình thành, phát triển và những hoạt động của căn cứ địa ở Củ Chi trong tiến
trình của cuộc kháng chiến chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ và Đảng bộ địa
phương các cấp. Từ đó, thấy được những giá trị và kinh nghiệm mà nó để lại, bổ sung thêm vào
những mảng còn trống trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện đại, đặc biệt là lịch sử địa phương;
góp phần vào nghiên cứu về chiến tranh cách mạng nói chung, về căn cứ địa trong chiến tranh
cách mạng nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng giảng dạy lịch sử địa phương ở Củ Chi,
giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Từ đó, khơi dậy ý thức giữ gìn, bảo tồn các
khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ hiện nay.
6. Bố cục của luận văn
- Mở đầu (7 trang).
- Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về căn cứ địa và sự tái lập căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi khi bước vào
kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1960) (31 trang).
Chương 2: Quá trình phát triển và hoạt động của căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi (1961 -
1975) (41trang).
Chương 3: Đặc điểm, vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi trong kháng chiến chống Mỹ
(1954 – 1975) (27 trang).
- Kết luận (4 trang)
- Tài liệu tham khảo (11 trang).
- Phụ lục (38 trang).
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ CĂN CỨ ĐỊA VÀ SỰ TÁI LẬP CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở CỦ CHI
KHI BƯỚC VÀO KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1954 – 1960)
1.1. Khái quát về căn cứ địa
Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích căn cứ địa cách mạng là “vùng được chọn để làm bàn
đạp xây dựng và phát triển phong trào cách mạng rộng ra các vùng khác. Căn cứ địa cách mạng
phải có khả năng tạo được những cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội và địa lý thuận lợi cho
đấu tranh cách mạng và chiến tranh cách mạng. Xây dựng căn cứ địa cách mạng phải bắt đầu từ
xây dựng cơ sở chính trị, cơ sở vũ trang, xây dựng chính quyền cách mạng để trên cơ sở đó từng
bước xây dựng kinh tế, xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển của cách mạng Ở Việt Nam, trong
cách mạng giải phóng dân tộc đã xây dựng được một số căn cứ địa cách mạng làm chỗ dựa cho
cách mạng phát triển ra cả nước như các căn cứ địa Việt Bắc, Đồng Tháp Mười, U Minh” [63,
tr. 371].
Bàn về căn cứ địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Đội du kích trong lúc hoạt động đánh quân thù cần có một vài nơi đứng chân làm cơ sở. Tại
nơi ấy, đội du kích tích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi, luyện tập. Nơi ấy phải
có địa thế hiểm yếu che chở và quần chúng cảm tình ủng hộ.
Đội du kích hoạt động phát triển nhiều thì chỗ cơ sở nhỏ đầu tiên ấy có thể trở nên căn cứ địa
vững vàng, nhất là sau khi đội du kích đánh đuổi được quân giặc và thành lập chính quyền cách
mạng trong địa phương. Chưa thành lập được chính quyền địa phương thì căn cứ địa khó thành
lập và không thể củng cố được.
Có chính quyền cách mạng của địa phương, có căn cứ địa vững vàng, đội du kích nhờ đó mà
phát triển lực lượng và hóa ra quân chính quy”[71, tr. 504].
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong tác phẩm “Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta”
lý giải “căn cứ địa cách mạng là những vùng giải phóng xuất hiện trong vòng vây của địch, cách
mạng dựa vào đó để tích lũy và phát triển lực lượng của mình về mọi mặt, tạo thành những trận
địa vững chắc về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, lấy đó làm nơi xuất phát để mở rộng dần ra,
cuối cùng tiến lên đánh bại kẻ thù lớn mạnh, giải phóng hoàn toàn đất nước. Căn cứ địa là chỗ
đứng chân của cách mạng, đồng thời là chỗ dựa để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, đẩy
mạnh đấu trang vũ trang cách mạng; trên ý nghĩa đó, nó cũng là hậu phương của chiến tranh
cách mạng” [49, tr. 90].
Trong chiến tranh cách mạng ở nước ta, ngoài các căn cứ địa cách mạng, còn có một số vùng
(xã, ấp) chưa được giải phóng hoàn toàn, cũng có những khu vực cho du kích xã đứng chân
trong các ấp đã được giải phóng. Những khu vực này được gọi là các căn cứ lõm, tức là các căn cứ
ăn sâu hay nằm lọt giữa vùng tạm chiếm của địch, có khi còn được gọi là các căn cứ du kích hoặc
lõm du kích [76, tr. 54].
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước hành động khủng bố, trả thù của
Mỹ - Diệm, cách mạng miền Nam bị tổn thất về tổ chức và lực lượng ngày càng nặng. Quần chúng
cách mạng bị kìm kẹp, khống chế gắt gao. Nhiều nơi đảng viên phải rút vào hoạt động bí mật,
chuyển vùngMột số địa phương, cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng chuyển vào các căn
cứ kháng chiến cũ ở rừng núi, bưng biền, tổ chức sản xuất tự túc và tự vệ. Miền rừng núi Khu 5,
Tây Nam Bộ, Tây Nguyên xuất hiện các “trại bí mật”. Ở chiến khu Đ, Dương Minh Châu (miền
Đông Nam Bộ) hình thành “làng chiến đấu”, “làng thoát ly”. Vùng Đồng Tháp Mười ra đời các
“túi dân tản cư”. Sâu trong miệt rừng U Minh thuộc Tây Nam Bộ có các “làng rừng”. Vùng đồng
bào S.Tiêng có các “làng Độc Lập” Đó là những hình thức khác nhau, là cơ sở ban đầu hình
thành các căn cứ địa trong giai đoạn đầu kháng chiến chống Mỹ [29, tr. 188].
Khi qui mô và cường độ cuộc chiến tranh tăng lên thì căn cứ địa cũng phát triển rộng khắp.
Tùy theo điều kiện tự nhiên, xã hội, địa hình mà căn cứ địa được xây dựng dưới nhiều hình
thức. Ở miền rừng núi Đông Nam Bộ, lợi dụng địa hình có rừng rậm, hiểm trở, lực lượng cách
mạng đã khôi phục 2 căn cứ địa lớn đã có từ thời kháng chiến chống Pháp là Chiến khu Đ và chiến
khu Dương Minh Châu, phát triển thành căn cứ Đông Bắc và Tây Bắc Sài Gòn, thành các căn cứ
chiến lược của cả Nam Bộ.
Bên cạnh căn cứ vùng rừng núi, ở miền Trung và Tây Nam Bộ nước ta còn có các căn cứ từ
thời kháng chiến chống Pháp như căn cứ Đồng Tháp Mười, là vùng đồng nước mênh mông vào
mùa mưa hoặc dạng rừng tràm, đước ngập nước như căn cứ U Minh.
Căn cứ Rừng Sác cũng là một căn cứ nổi tiếng từ thời chống Pháp. Là một vùng rừng ngập
mặn, nằm ở phía Đông Nam thành phố Sài Gòn. Tại đây, hàng trăm sông rạch lớn nhỏ dọc ngang
chằng chịt như mạng nhện, chia cắt Rừng Sác thành hàng nghìn đảo triều lớn nhỏ, thoắt chìm thoắt
nổi theo nước thủy triều. Phủ lên Rừng Sác đủ các loại cây rừng ngập mặn, đan níu nhau tầng tầng
lớp lớp. Sông rạch, đảo triều, rừng cây làm cho Rừng Sác trở thành một khu vực cực kỳ hiểm trở,
lại nằm sát cạnh thành phố Sài Gòn và ôm gọn đường giao thông thủy chiến lược nối Sài Gòn ra
quốc tế [41, tr. 77-78].
Ở những vùng không có địa thế hiểm yếu, lực lượng cách mạng cũng sáng tạo ra một dạng căn
cứ độc đáo để bảo tồn và phát triển lực lượng, đó là căn cứ địa đạo, là “căn cứ chìm”, ngầm trong
lòng đất mà tiêu biểu nhất là căn cứ địa đạo ở Củ Chi.
Ngoài ra, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, các gia đình cơ sở cách mạng ở nội thành thành
phố Sài Gòn trở thành nơi chứa vũ khí, nuôi giấu, trú ém cán bộ, chiến sĩ, nơi đặt chỉ huy sở của
các đội biệt động, nơi tập kết lực lượng và bàn đạp tiến công vào các mục tiêu nội đô trong quá
trình thực hiện Tổng công kích. Những gia đình cơ sở đó đã làm công việc của một căn cứ địa thu
nhỏ, trở thành một dạng phát triển cao của “căn cứ địa lòng dân”, tạo nên một hình thức hoàn toàn
mới về căn cứ địa [76, tr. 92].
Như vậy, căn cứ địa ở nước ta nói chung, ở Nam Bộ nói riêng đa dang về hình thức. Tùy điều
kiện tự nhiên, xã hội, địa hình mà từng nơi, Đảng bộ các cấp đã lãnh đạo nhân dân xây dựng căn
cứ địa với dạng thức phù hợp, tạo nên sự phong phú, đa dạng về các loại hình căn cứ địa ở nước ta.
1.2. Căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi trước khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ
1.2.1. Những điều kiện xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội
Củ chi là huyện nông nghiệp ngoại thành nằm về phía Tây- Bắc của thành phố Hồ Chí Minh.
Thị trấn Củ Chi cách trung tâm thành phố 35 km theo quốc lộ 22. Củ Chi nằm trong vành đai xanh
của thành phố với tổng diện tích tự nhiên là 42.856 ha.
Củ Chi là vùng đất tiếp giáp của bốn tỉnh miền Đông Nam Bộ. Phía Bắc- Tây Bắc giáp huyện
Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh. Phía Đông - Đông Bắc giáp huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, ngăn
cách bởi con sông Sài Gòn. Phía Tây - Tây Nam giáp huyện Đức Hòa tỉnh Long An, ranh giới tự
nhiên là kênh đào Thầy Cai. Phía Nam giáp huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh [9, tr. 10].
Với vị trí như vậy, Củ Chi là cửa ngõ Tây Bắc của thành phố Hồ Chí Minh. Trong chiến tranh,
đối với địch, Củ Chi là một khu vực vành đai then chốt bảo vệ cơ quan đầu não và bộ máy chiến
tranh của chúng ở Sài Gòn. Đối với lực lượng cách mạng, đây là bàn đạp tấn công vào đầu não của
kẻ thù. Vì vậy, Củ Chi được cả địch và lực lượng cách mạng coi là một địa bàn chiến lược quan
trọng.
Do là vùng đất tiếp nối giữa đồng bằng và cao nguyên Đông Nam Bộ nên địa hình Củ Chi cơ
bản là đồng bằng, rãi rác có một ít đồi chồi. Độ cao địa hình Củ Chi từ 0 đến 20 mét so với mặt
nước biển, nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Thổ nhưỡng của Củ Chi có thể phân ra 3 loại chủ yếu:
- Vùng bưng trũng: tập trung ở các xã phía Tây Nam, phía Nam và ven sông Sài Gòn, có độ cao
trung bình từ 1-2 mét, thường bị ngập úng vào những tháng cuối mùa mưa, chiếm 1/2 diện tích
toàn huyện. Đây là vùng đất nông nghiệp chủ yếu sản xuất lúa và rau màu các loại.
- Vùng đất triền: cao từ 5-10 mét, là vùng chuyển tiếp giữa gò và bưng trũng, chủ yếu là đất xám
bazan, chiếm 1/4 tổng diện tích và được phân bố trên hầu hết các xã của huyện, trừ các vùng phía
Bắc và ven sông Sài Gòn.
- Vùng đất gò: độ cao từ 10 đến trên 20 mét so với mặt nước biển, thường mặt gò được trải
rộng, bằng phẳng, phân bố trên khu vực các xã: Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây.Vùng gò thích hợp
với việc bảo dưỡng cây rừng và trồng cây công nghiệp như cao su, tre, trúc, tầm vông
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, giá trị của đất Củ Chi còn lớn hơn nữa vì chất
đất khô ráo, cứng chặt, là điều kiện quan trọng để lực lượng cách mạng có thể xây dựng những
đường hầm dài hàng trăm kilômét trong lòng đất, tạo nên căn cứ địa đạo Củ