Luận văn Đánh giá hiệu quả của chế phẩm vi sinh Sagi Bio-1 trong xử lý chất lót chuồng nuôi gà tại Tam Dương - Vĩnh Phúc

Đi cùng sự phát triển đô thị, phát triển công nghiệp, dịch vụ đời sống xã hội càng tăng thì nhu cầu lương thực, thực phẩm phục vụ phát triển con người ngày càng tăng, trong đó nhu cầu thịt trứng sữa tăng cao, tất yếu thúc đẩy chăn nuôi phát triển mạnh mẽ. Thống kê năm 2013 của Cục Chăn nuôi, tổng đàn gia cầm ở Việt Nam khoảng 314,8 triệu con gia cầm và lượng chất thải là 22,52 triệu tấn. Trong quy trình nuôi gia cầm (gà thịt, gà đẻ trứng, gia cầm, chim cút ) ở quy mô hộ gia đình và trang trại (từ vài trăm con đến hàng chục nghìn con), các chủ trang trại phải sử dụng vỏ trấu hoặc mùn cưa lót nền chuồng, để giữ cho nền chuồng được khô và hạn chế sự ô nhiễm môi trường, chất lót chuồng thường nhiều gấp 4 - 5 so với lượng phân thải ra. Ở Việt Nam, các trang trại nuôi gia cầm thường nằm xen kẽ trong khu dân cư, nên chất thải chăn nuôi gây ô nhiễm môi trường, tác động trực tiếp tới sức khỏe cộng đồng, làm giảm sức đề kháng của vật nuôi, tăng tỷ lệ mắc bệnh, năng suất không cao, hiệu quả chăn nuôi thấp. Mức độ nhiễm khuẩn trong môi trường không khí tại các khu vực chăn nuôi vượt từ 20 - 25 lần so với tiêu chuẩn về môi trường (TCN 10) của Bộ NNPTNT [4]. Hiện nay, việc sử dụng chế phẩm vi sinh vật để xử lý chuồng trại chăn nuôi cũng đã được áp dụng ở Việt Nam. Ví dụ như sử dụng chế phẩm vi sinh vật EM phun cho các trang trại chăn nuôi, có tác dụng làm giảm mùi hôi, ngăn chặn ruồi và các côn trùng có hại, tăng chất lượng sản phẩm. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đang nghiên cứu và triển khai thử nghiệm mô hình sử dụng chế phẩm vi sinh vật (Balasa) để bổ sung vào chất lót chuồng nuôi lợn, gà (mô hình chăn nuôi sinh thái) đã mang lại hiệu quả về kinh tế và môi trường như: giảm sự phát sinh mùi, chất thải rắn và nước thải trong quá trình chăn nuôi.

doc76 trang | Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 1808 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá hiệu quả của chế phẩm vi sinh Sagi Bio-1 trong xử lý chất lót chuồng nuôi gà tại Tam Dương - Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN CAO HỌC Chuyên ngành: Công nghệ sinh học Đề tài: “Đánh giá hiệu quả của chế phẩm vi sinh Sagi Bio-1 trong xử lý chất lót chuồng nuôi gà tại Tam Dương - Vĩnh Phúc” Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS Tăng Thị Chính Học viên thực hiện : Bùi Văn Công Lớp : Công nghệ sinh học – K5A Thái Nguyên 5, 2014 LỜI CÁM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Tăng Thị Chính – Trưởng phòng Vi sinh vật môi trường - Viện Công nghệ môi trường. Người đã định hướng, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn cao học này. Đồng thời, tôi xin cám ơn ThS. Nguyễn Thị Hòa và các cán bộ nghiên cứu, các bạn đồng nghiệp trong phòng Vi sinh vật môi trường - Viện công nghệ môi trường đã giúp đỡ và có những góp ý bổ ích cho tôi khi thực hiện luận văn này. Tôi xin cám ơn thầy cô giáo khoa Khoa học sự sống – Đại học Khoa học đã trang bị những kiến thức, cũng như tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành chương trình học và thực hiện luận văn. Cuối cùng, tôi xin chân thành cám ơn gia đình và bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt thời gian qua. Do điều kiện thời gian và kiến thức còn hạn chế, nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo cũng như các bạn để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cám ơn. Hà Nội, ngày tháng năm 2014 Học viên Bùi Văn Công MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC BẢNG DANH MỤC HÌNH DANH MỤC CHỮ VIÊT TẮT STT Chữ viết tắt Nội dung 1 BOD Nhu cầu oxy hóa sinh học 2 COD Nhu cầu oxy hóa học 3 FAO Tổ chức Liên Hợp Quốc về lương thực và nông nghiệp 4 EM Vi sinh vật hữu hiệu 5 KH & CN Khoa học và công nghệ 6 VK Vi khuẩn 7 VSV Vi sinh vật 8 XK Xạ khuẩn 9 TCTK Tổng cục thống kê 10 TCCP Tiêu chuẩn cho phép 11 TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam 12 BNNPTNT Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn 13 TCN Tiêu chuẩn ngành 14 QCVN Quy chuẩn Việt Nam 15 ĐC Đối chứng 16 TN Thí nghiệm MỞ ĐẦU Đi cùng sự phát triển đô thị, phát triển công nghiệp, dịch vụ đời sống xã hội càng tăng thì nhu cầu lương thực, thực phẩm phục vụ phát triển con người ngày càng tăng, trong đó nhu cầu thịt trứng sữa tăng cao, tất yếu thúc đẩy chăn nuôi phát triển mạnh mẽ. Thống kê năm 2013 của Cục Chăn nuôi, tổng đàn gia cầm ở Việt Nam khoảng 314,8 triệu con gia cầm và lượng chất thải là 22,52 triệu tấn. Trong quy trình nuôi gia cầm (gà thịt, gà đẻ trứng, gia cầm, chim cút) ở quy mô hộ gia đình và trang trại (từ vài trăm con đến hàng chục nghìn con), các chủ trang trại phải sử dụng vỏ trấu hoặc mùn cưa lót nền chuồng, để giữ cho nền chuồng được khô và hạn chế sự ô nhiễm môi trường, chất lót chuồng thường nhiều gấp 4 - 5 so với lượng phân thải ra. Ở Việt Nam, các trang trại nuôi gia cầm thường nằm xen kẽ trong khu dân cư, nên chất thải chăn nuôi gây ô nhiễm môi trường, tác động trực tiếp tới sức khỏe cộng đồng, làm giảm sức đề kháng của vật nuôi, tăng tỷ lệ mắc bệnh, năng suất không cao, hiệu quả chăn nuôi thấp. Mức độ nhiễm khuẩn trong môi trường không khí tại các khu vực chăn nuôi vượt từ 20 - 25 lần so với tiêu chuẩn về môi trường (TCN 10) của Bộ NNPTNT [4]. Hiện nay, việc sử dụng chế phẩm vi sinh vật để xử lý chuồng trại chăn nuôi cũng đã được áp dụng ở Việt Nam. Ví dụ như sử dụng chế phẩm vi sinh vật EM phun cho các trang trại chăn nuôi, có tác dụng làm giảm mùi hôi, ngăn chặn ruồi và các côn trùng có hại, tăng chất lượng sản phẩm... Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đang nghiên cứu và triển khai thử nghiệm mô hình sử dụng chế phẩm vi sinh vật (Balasa) để bổ sung vào chất lót chuồng nuôi lợn, gà (mô hình chăn nuôi sinh thái) đã mang lại hiệu quả về kinh tế và môi trường như: giảm sự phát sinh mùi, chất thải rắn và nước thải trong quá trình chăn nuôi. Trong nhiều năm qua phòng Vi sinh vật môi trường của Viện Công nghệ môi trường đã có nhiều kinh nghiệm trong việc nghiên cứu sản xuất và ứng dụng các chế phẩm vi sinh vật tuyển chọn ở Việt Nam để xử lý phế thải nông nghiệp, rác thải sinh hoạt và nước thải. Hiện nay, phòng đang nghiên cứu và hoàn thiện chế phẩm vi sinh Sagi Bio- 1 để xử lý chất lót chuồng nuôi gia cầm cho các hộ nông dân. Việc đánh giá hiệu quả của chế phẩm Sagi Bio- 1 trong xử lý chất lót chuồng nuôi gà có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ứng dụng các sản phẩm khoa học vào thực tiễn. Chính vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả của chế phẩm vi sinh Sagi Bio- 1 trong xử lý chất lót chuồng nuôi gà tại Tam Dương - Vĩnh Phúc”. Mục tiêu nghiên cứu - Đánh giá hiệu quả của chế phẩm vi sinh Sagi Bio- 1 khi sử dụng để bổ sung chất lót chuồng nuôi gia cầm nhằm hạn chế phát sinh mùi hôi thối và ức chế các vi sinh vật trong chất thải chăn nuôi gia cầm, góp phần cải thiện môi trường nông thôn. - Phát triển ứng dụng chế phẩm vi sinh Sagi Bio- 1 vào xử lý ô nhiễm môi trường chuồng trại chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam. Nội dung nghiên cứu - Điều tra khảo sát tình hình chăn nuôi gia cầm và mức độ ô nhiễm môi trường tại 1 số xã có mật độ chăn nuôi gia cầm cao của huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. - Sử dụng chế phẩm vi sinh Sagi Bio- 1 để bổ sung vào chất lót chuồng nuôi gà tại 1 số hộ chăn nuôi tại huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. - Phân tích đánh giá chất lượng không khí chuồng nuôi (tổng vi khuẩn hiếu khí, sự phát sinh mùi H2S, NH3) giữa các chuồng nuôi gia cầm sử dụng chế phẩm vi sinh Sagi Bio- 1 và không sử dụng chế phẩm vi sinh trong quá trình nuôi gia cầm. - Phân tích đánh giá sự biến động của các vi sinh vật hữu ích sử dụng để sản xuất chế phẩm Sagi Bio- 1 (xạ khuẩn Streptomyces và vi khuẩn Lactobacillus) trong chất lót chuồng nuôi gia cầm giữa các chuồng nuôi gia cầm sử dụng chế phẩm vi sinh Sagi Bio- 1 và không sử dụng chế phẩm vi sinh. - Đánh giá sự biến động của các nhóm vi sinh vật gây bệnh bao gồm E.coli, Salmonella, Nấm mốc trong chất lót chuồng nuôi gia cầm giữa các chuồng nuôi gia cầm sử dụng chế phẩm vi sinh Sagi Bio- 1 và không sử dụng chế phẩm vi sinh. PHẦN I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Hiện trạng chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 1.1.1. Hiện trạng chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam Chăn nuôi gia cầm là nghề chăn nuôi truyền thống ở Việt Nam, sản phẩm gia cầm, đặc biệt là thịt gà không chỉ là nguồn cung cấp thực phẩm có giá trị mà còn in đậm trong đời sống xã hội bởi một nền văn hóa ẩm thực với cả yếu tố tâm linh, nó được sử dụng nhiều trong những ngày giỗ, ngày tết và lễ hội. Với những lý do đó sản phẩm gia cầm luôn có vị trí trên thị trường tiêu thụ, đã góp phần thúc đẩy chăn nuôi phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người chăn nuôi. Mấy năm trở lại đây, chăn nuôi gia cầm có sự phát triển khá nhanh, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm qua các giai đoạn có xu hướng tăng lên rõ rệt. Trong các loại gia cầm, gà là loại chính chiếm trên 75% tổng gia cầm. Bên cạnh đó, chăn nuôi một số loại gia cầm như ngan, vịt cũng khá phát triển. Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm về gia cầm khá lớn và là yếu tố thúc đẩy sản xuất của ngành này phát triển [12]. Sản xuất chăn nuôi ở Việt Nam có 3 cách thức chăn nuôi chính: Chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ, chăn nuôi bán công nghiệp và chăn nuôi công nghiệp. Việt Nam với khoảng 73% dân số sống ở vùng nông thôn, phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một trong những mục tiêu được Đảng và Nhà nước hết sức chú trọng, trong đó có phát triển kinh tế hộ gia đình thông qua các hoạt động phát triển chăn nuôi. Theo báo cáo của 60/64 tỉnh, thành tính đến 1/10/2013 có tổng số 16.012 trang trại, trong đó miền Bắc có 6.101 trang trại, miền Nam có 9.911 trang trại. Chăn nuôi gia cầm chiếm 15,4% trang trại chăn nuôi [12]. Chăn nuôi gà trong giai đoạn 2008 – 2012 đạt 2,74% về số lượng con. Thống kê năm 2013 của Cục Chăn nuôi, cả nước có khoảng 8,5 triệu hộ chăn nuôi quy mô gia đình và 18.000 trang trại chăn nuôi tập trung. Với tổng đàn 314,8 triệu con gia cầm, trong đó đàn gà 231,8 triệu con (hình 1.1) và hơn 38 triệu con gia súc [34; 35]. Hình 1.1. Thống kê số lượng gà qua các năm ở Việt Nam 1.1.2. Hiện trạng chăn nuôi gia cầm ở tỉnh Vĩnh Phúc (Theo số liệu của Cục thống kê tỉnh tại thời điểm 01/10 từ 2006 đến năm 2012; điều tra, khảo sát của Sở Nông nghiệp &PTNT tháng 9/2012 và tháng 01/2013) Số lượng và sản phẩm - Tổng đàn gia cầm của tỉnh 8.566.600 con, trong đó số lượng gà: 7.375.800 con chiếm 86,2% tổng đàn; số lượng thủy cầm (vịt, ngan, ngỗng): 1.190.800 con chiếm 13,8% tổng đàn (vịt có 988.900 con). Giai đoạn 2006-2010 đàn gia cầm liên tục tăng, bình quân 5,85%/năm; trong đó đàn gà đẻ tăng mạnh, năm 2010 đạt 1.690.000 con tăng 16,2% so với năm 2009; đến năm 2012 đàn gà đẻ đạt 2.497.780 con chiếm 33,8% tổng đàn gà. - Sản lượng thịt gia cầm giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân 11,5%/năm, năm 2012 đạt 22.183 tấn tăng so với năm 2011 là 6,5% (tăng 1.357 tấn). - Sản lượng trứng gia cầm (2006-2010) tăng bình quân 20,3%/năm; năm 2012 đạt 333,7 triệu quả, tăng so với 2011 8,5% (tăng 26,3 triệu quả). Cơ cấu giống - Các giống gà công nghiệp hướng thịt nuôi trên địa bàn tỉnh gồm: Isa, AA, 707, Cob 500, Ross 308,là những giống được nhập từ các công ty trong nước, công ty liên doanh với nước ngoài trên địa bàn tỉnh. - Các giống gà công nghiệp hướng trứng chủ yếu là giống: Isa Brow và Ai cập. - Các hộ chăn nuôi gà thả vườn dùng chủ yếu các giống lai mẹ Lương Phượng hoặc Tam Hoàng lai với bố Mía. Qui mô, phương thức, thức ăn chăn nuôi gia cầm - Qui mô: Theo kết quả tổng điều tra về nông thôn, nông nghiệp & thủy sản tháng 7/2012 của Cục Thống kê cho thấy: Toàn tỉnh có 128.509 hộ có chăn nuôi gà. Trong đó hộ nuôi 1-19 con chiếm 29,47%; từ 20-49 con chiếm 40,57; Quy mô hộ nuôi nuôi gà được thể hiện ở hình 1.2. Hình 1.2. Thống kê % số lượng quy mô hộ nuôi gà tại tỉnh Vĩnh Phúc + Gà đẻ qui mô từ 1.000 con trở lên có 1.177 hộ, trang trại; quy mô từ 3.000 con trở lên có 93 trang trại (trong đó có 59 cơ sở nuôi gà sản xuất con giống). + Gà thịt qui mô từ 1.000-3.000 con/lứa có 64 hộ, trang trại; qui mô từ 5.000 con/ lứa trở lên có 59 trang trại. Chăn nuôi gà thả vườn đã phát triển ở nhiều hộ tại các xã trung du, miền núi, qui mô từ 500 con/lứa trở lên. Chiếm tỷ lệ khá lớn là chăn nuôi qui mô hộ gia đình từ vài chục con đến vài trăm con. - Phương thức và thức ăn chăn nuôi: Đã có nhiều trang trại nuôi gà xây dựng chuồng kín có hệ thống làm mát, điều tiết nhiệt, sử dụng 100% thức ăn công nghiệp. Chăn nuôi vừa nhốt vừa kết hợp thả vườn và sử dụng thức ăn công nghiệp có kết hợp với sản phẩm nông nghiệp (ngô, thóc) theo từng giai đoạn. Chăn nuôi trong nông hộ, nhỏ lẻ sử dụng, tận dụng thức ăn là ngô, thóc. Vùng chăn nuôi Đã hình thành vùng chăn nuôi tập trung gà đẻ, gà thịt tại huyện Tam Dương, Tam Đảo (số lượng gà ở 2 huyện này chiếm 50,3% tổng đàn gà của tỉnh). Một số xã chăn nuôi gà trọng điểm như thị trấn Hợp Hòa, xã Thanh Vân (Tam Dương), xã Tam Quan (Tam Đảo) số lượng gà có thời điểm đạt trên 1 triệu con/xã. Khảo sát, thống kê của Sở NN&PTNT tháng 01/2013: Chăn nuôi gà đẻ qui mô 1.000 con trở lên ở Tam Dương có 661 hộ, trang trại; Tam Đảo có 132 hộ, trang trại; 2 huyện chiếm 73% tổng số hộ, trang trại nuôi gà đẻ có qui mô 1.000 con trở lên trong toàn tỉnh [36]. Hình 1.3. Chuồng nuôi gà siêu trứng nhà chị Trần Thị Hoa, xã Hướng Đạo, Tam Dương Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ - Giống: Một số giống gà đẻ, gà thịt cao sản đã được nuôi trong các trang trại. - Chuồng trại, thiết bị: Hệ thống chuồng nuôi khép kín, có hệ thống làm mát; máng ăn, máng uống hiện đại đã được nhiều trang trại chăn nuôi gà đẻ, gà thịt ứng dụng. - Quy trình chăn nuôi, phòng bệnh được thực hiện tốt ở các trang trại chăn nuôi có quy mô lớn (từ 1.000 con trở lên). * Đánh giá hiện trạng chăn nuôi gia cầm - Tích cực + Tốc độ phát triển chăn nuôi gia cầm cao, liên tục nhiều năm cả về số lượng con, sản lượng thịt, trứng. + Nhiều giống mới cao sản về trứng, thịt được nhập nội, đưa vào sản xuất. + Cơ cấu đàn gia cầm đẻ chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong tổng đàn gia cầm (gà đạt 33,8%). + Trang trại chăn nuôi gia cầm phát triển mạnh cả nuôi thịt và đẻ trứng; đã hình thành vùng chăn nuôi gà tập trung với số lượng lớn ở Tam Dương, Tam Đảo. + Chuồng trại, thiết bị hiện đại và nuôi công nghiệp đã được nhiều trang trại áp dụng; chăn nuôi gà thịt quy mô 1.000 con/hộ trở lên có xu hướng phát triển mạnh. - Hạn chế + Chăn nuôi, sản xuất con giống gia cầm không có hệ thống (toàn tỉnh có 84 cơ sở chăn nuôi gia cầm bố mẹ, ấp nở; gà: 59 cơ sở, vịt: 25 cơ sở) nhưng chưa quản lý được chất lượng giống và phát triển tự phát. + Phát triển chăn nuôi gia cầm chưa có quy hoạch. + Nhiều hộ chăn nuôi chưa đầu tư được chuồng trại, thiết bị còn chắp vá và tận dụng. + Phòng, chống dịch bệnh không chủ động, quy trình chăn nuôi thiếu an toàn sinh học còn phổ biến. + Ô nhiễm môi trường do chăn nuôi gia cầm ngày càng tăng, chưa có biện pháp xử lý hiệu quả [36]. 1.1.3. Hiện trạng môi trường ở Tam Dương - Vĩnh Phúc Tam Dương là huyện trung du của tỉnh Vĩnh Phúc. Với diện tích tự nhiên là 10.718,55 ha, dân số 95.964 người theo thống kê năm 2009 của tỉnh Vĩnh Phúc [37], Những ngày đầu tái lập, huyện Tam Dương còn gặp muôn vàn khó khăn, thách thức do là huyện thuần nông. Kết cấu hạ tầng vừa thiếu, vừa yếu. Khi đó, cơ cấu kinh tế ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm tỷ trọng chủ yếu với 65,3%; Tiểu thủ công nghiệp chiếm 18,4%; Thương mại - dịch vụ chỉ chiếm 18,4%. Đến nay, Tam Dương trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc và cả nước. Cơ cấu vật nuôi, cây trồng, được mạnh dạn chuyển đổi; nhân dân tích cực áp dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất. Huyện đã xây dựng được 3 vùng chăn nuôi tập trung với tổng diện tích 50ha. Năm 2012, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi ước đạt 1000 tỷ đồng, chiếm 68% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp toàn huyện, tăng 10% so với năm 2011. Và chủ lực, mũi nhọn trong phát triển chăn nuôi của Tam Dương vẫn là chăn nuôi gia cầm. Đến nay, có thể khẳng định Tam Dương là huyện có số lượng gia cầm lớn nhất tỉnh (chiếm 1/3 tổng đàn gia cầm toàn tỉnh) [37]. Chăn nuôi ở Tam Dương đã giải quyết cho hàng ngàn lao động, nông dân có việc làm và thu nhập ổn định, nhiều gia đình từ nghèo khó đã trở thành những hộ giàu có thực sự. Tam Dương có nguồn thực phẩm phong phú, ổn định không những cung cấp cho việc tiêu dùng ở Vĩnh Phúc mà thực phẩm ở đây còn cung cấp tới cả thủ đô Hà Nội. Tam Dương là một huyện tuy không có nhiều rác thải độc hại phát sinh từ các khu công nghiệp, khu du lịch, nhưng vấn đề ô nhiễm môi trường tại huyện Tam Dương đã đến mức báo động. Ô nhiễm môi trường của Tam Dương chủ yếu phát sinh từ các mô hình kinh tế gắn liền với sản xuất, chế biến nông sản và đặc biệt là chăn nuôi gia súc, gia cầm. Năm 2013, toàn Huyện hiện có gần 190 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm với quy mô lớn. Tổng số các trang trại hiện đang nuôi khoảng 3.000 con trâu; 89.000 con bò; 9.832 con lợn; 581.250 con gia cầm;... Bình quân một trang trại chăn nuôi có quy mô gần 60 đầu lợn và 2.200 con gia cầm. Một số hộ trang trại chăn nuôi có quy mô lớn trên địa bàn huyện như ông Phạm Quang Hải ở xã Kim Long nuôi 1.400 con lợn; ông Bùi Văn Chuyên nuôi 1.200 con lợn. Nhiều hộ nuôi trên 20.000 con gà. Mặc dù chăn nuôi ở Tam Dương phát triển như vậy, nhưng chỉ có hơn 10% số trang trại áp dụng mô hình biogas và lắng lọc, số còn lại xả thẳng chất thải rắn và lỏng ra môi trường. Chính vì không xử lý chất thải, nên các trang trại này gây ảnh hưởng đến cả môi trường không khí. Ngoài 190 trại chăn nuôi gia súc, gia cầm này, trên địa bàn huyện còn có hàng ngàn hộ dân chăn nuôi trong khu dân cư với quy mô nhỏ lẻ. Tất cả những hộ chăn nuôi nhỏ lẻ này đều không có hệ thống xử lý chất thải, làm ô nhiễm môi trường trong khu dân cư [36]. Trên địa bàn toàn huyện mới chỉ có 30% số hộ chăn nuôi dân đăng ký thu gom, xử lý rác thải, 90% các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm không chịu đầu tư hệ thống xử lý chất thải. Công tác quy hoạch khu vực chứa và sử dụng rác thải còn nhiều bất cập. Dịch vụ vệ sinh môi trường còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu xử lý rác thải tại địa phương. Bên cạnh đó, ý thức của người dân về bảo vệ môi trường còn yếu, hiện tượng xả rác thải bừa bãi, xác súc vật chết ra các kênh mương còn phổ biến. Theo kết quả khảo sát năm 2010 tại một số xã có nhiều hộ chăn nuôi đã được Chi cục Thú y tỉnh công bố, nồng độ khí NH3, H2S có trong không khí tại một số nơi đã cao hơn mức cho phép từ 1 – 2,3 lần, độ nhiễm khuẩn coliform cao hơn gấp 3,2 lần TCCP; nước thải nhiễm E. Coli và tỷ lệ số mẫu nước thải nhiễm trứng giun cao. Hàm lượng COD trong nước thải từ 314 – 542mg/l, cao hơn giới hạn cho phép từ 1,57 – 2,71 lần, hàm lượng BOD từ 182,5 – 406,4mg/l vượt TCCP từ 1,22 – 2,7 lần. Thực tế, do chưa thực hiện tốt công tác bảo đảm an toàn, vệ sinh môi trường nên tình hình dịch bệnh đã xảy ra ở nhiều huyện, địa phương trong tỉnh như dịch tai xanh ở lợn tại huyện Tam Đảo; dịch cúm gia cầm ở huyện Tam Dương; dịch lở mồm long móng ở xã Hồng Phong (Lập Thạch); [29; 37]. Với sự vào cuộc quyết liệt của các cấp chính quyền và các ngành chức năng, trong công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là giảm ô nhiễm môi trường trong ngành chăn nuôi. Cùng với thực tế ô nhiễm tại các làng, xã nơi các hộ chăn nuôi đang sinh sống. Nên hộ chăn nuôi hiện nay đã có thay đổi nhận thức về tác hại của tình trạng ô nhiễm môi trường. Hiện nay, các phương pháp sử dụng chế phẩm sinh học thân thiện với môi trường trong xử lý chất thải chăn nuôi. Ngoài việc tạo ra nguồn phân bón hữu cơ dồi dào cho phát triển nông nghiệp, hạn chế nguồn sâu bệnh, tái chế các chất phế thải nông nghiệp thành phân bón còn góp phần giảm chi phí sản xuất. Được khuyến cáo sử dụng rộng rãi trong cộng đồng, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững [29]. 1.2. Các vấn đề môi trường trong chuồng trại chăn nuôi gà 1.2.1. Thành phần chất thải chăn nuôi Phân Phân là sản phẩm loại thải của quá trình tiêu hoá của gia súc, gia cầm bị bài tiết ra ngoài qua đường tiêu hóa. Phân gia súc, gia cầm là sản phẩm dinh dưỡng tốt cho cây trồng hay các loại sinh vật khác như cá, giun Thành phần hoá học của phân bao gồm: - Các chất hữu cơ gồm các chất protein, carbonhydrate, chất béo và các sản phẩm trao đổi của chúng. - Các chất vô cơ bao gồm các hợp chất khoáng (đa lượng, vi lượng). - Nước: là thành phần chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 65 – 80% khối lượng của phân. Do hàm lượng nước cao, giàu chất hữu cơ cho nên phân là môi trường tốt cho các vi sinh vật phát triển và phân hủy các chất hữu cơ tạo nên các sản phẩm có thể gây độc cho môi trường. - Dư lượng của thức ăn bổ sung cho gia súc, gồm các thuốc kích thích tăng trưởng, các hormone hay dư lượng kháng sinh - Các men tiêu hóa của bản thân gia súc, chủ yếu là các men tiêu hóa sau khi sử dụng bị mất hoạt tính và được thải ra ngoài - Các mô và chất nhờn tróc ra từ niêm mạc đường tiêu hoá. - Các thành phần tạp từ môi trường thâm nhập vào thức ăn trong quá trình chế biến thức ăn hay quá trình nuôi dưỡng gia súc. - Các yếu tố gây bệnh như các vi khuẩn, ký sinh trùng bị nhiễm trong đường tiêu hoá gia súc hay trong thức ăn [9]. Bảng 1.1. Thành phần hóa học của phân gia súc, gia cầm Loại vật nuôi Thành phần hóa học (% trọng lượng vật nuôi) Nitơ tổng số Phospho tổng số Bò sữa 0,38 0,10 Bò thịt 0,70 0,20 Cừu 1,00 0,30 Gia cầm (gà) 1,20 1,20 Ngựa 0,86 0,13 Nguồn: Ngô Kế Sương và Nguyễn Lân Dũng, 1997 - Trong phân còn chứa nhiều loại vi sinh vật và ký sinh trùng kể cả có lợi và có hại. Trong đó, các vi khuẩn thuộc loại Enterobacteriacea chiếm đa số với các loài điển hình như E.coli, Samonella, Shigella, Proteus, Nước tiểu Nước tiểu gia súc, gia cầm là sản
Luận văn liên quan