Đói nghèo và Việc làm là một trong những vấn đề xã hội bức xúc mang tính toàn
cầu. Giải quyết đói nghèo và việc làm ngày nay không còn là công việc riêng của từng
quốc gia, mà trở thành một trong những chính sách được ưu tiên hàng đầu trong các chư-ơng trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của toàn thế giới.
Việt Nam là một trong số những nước có tỷ lệ hộ nghèo và tỷ lệ lao động thiếu việc
làm khá cao nên giải quyết vấn đề đói nghèo và việc làm ở nước ta càng trở nên bức bách,
là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước, nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Một trong những chính sách mang tính đột phá, đóng vai trò động lực quan trọng là
hình thành định chế tài chính của Nhà nước, thực hiện giải pháp hỗ trợ trực tiếp cho hộ
nghèo và các đối tượng chính sách. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
131/2002/QĐ-TTg ngày 04/10/2002 về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội
(NHCSXH) nhằm thống nhất các nguồn lực tài chính, thiết lập một cơ chế hổ trợ, góp
phần thực hiện mục tiêu của Nhà nước đối với các đối tượng chính sách xã hội.Tuy
nhiên,có cơ chế chính sách nhưng tổ chức hoạt động để đưa chính sách đến đúng đối tượng
cũng không kém phần quan trọng.
Việc (NHCSXH) ra đời, trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo,
tách ra từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đáp ứng được yêu cầu tổ chức
lại hoạt động phục vụ đối tượng chính sách, nhưng đòi hỏi phải xây dựng một cơ chế hoạt
động phù hợp để Ngân hàng này có đủ năng lực thực hiện được các mục tiêu chính sách xã
hội.
85 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1993 | Lượt tải: 8
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp đổi mới hoạt động của chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp đổi mới hoạt động của
Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã
hội tỉnh Quảng Nam
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo và Việc làm là một trong những vấn đề xã hội bức xúc mang tính toàn
cầu. Giải quyết đói nghèo và việc làm ngày nay không còn là công việc riêng của từng
quốc gia, mà trở thành một trong những chính sách được ưu tiên hàng đầu trong các chư-
ơng trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của toàn thế giới.
Việt Nam là một trong số những nước có tỷ lệ hộ nghèo và tỷ lệ lao động thiếu việc
làm khá cao nên giải quyết vấn đề đói nghèo và việc làm ở nước ta càng trở nên bức bách,
là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước, nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Một trong những chính sách mang tính đột phá, đóng vai trò động lực quan trọng là
hình thành định chế tài chính của Nhà nước, thực hiện giải pháp hỗ trợ trực tiếp cho hộ
nghèo và các đối tượng chính sách. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
131/2002/QĐ-TTg ngày 04/10/2002 về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội
(NHCSXH) nhằm thống nhất các nguồn lực tài chính, thiết lập một cơ chế hổ trợ, góp
phần thực hiện mục tiêu của Nhà nước đối với các đối tượng chính sách xã hội.Tuy
nhiên,có cơ chế chính sách nhưng tổ chức hoạt động để đưa chính sách đến đúng đối tượng
cũng không kém phần quan trọng.
Việc (NHCSXH) ra đời, trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo,
tách ra từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đáp ứng được yêu cầu tổ chức
lại hoạt động phục vụ đối tượng chính sách, nhưng đòi hỏi phải xây dựng một cơ chế hoạt
động phù hợp để Ngân hàng này có đủ năng lực thực hiện được các mục tiêu chính sách xã
hội.
Quảng Nam là một trong số những tỉnh nghèo,có tỷ lệ hộ đói nghèo cao hơn rất
nhiều so với bình quân chung cả nước. Theo tiêu chí mới cả nước có tỷ lệ là 22% hộ đói
nghèo thì Quảng Nam tỷ lệ là 30,2%, nhu cầu nguồn lực để đầu tư, phát triển, nhất là khu
vực nông nghiệp, nông thôn đang là mối quan tâm hàng đầu của các cấp lãnh đạo, các
ngành của tỉnh.
Từ thực tiễn tổ chức thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và
các đối tượng chính sách khác trên địa bàn tỉnh trong những năm qua, đồng thời là người
trực tiếp tham gia quản lý NHCSXH tác giả chọn đề tài: “Giải pháp đổi mới hoạt động
của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam" để nghiên cứu làm luận
văn thạc sĩ- chuyên ngành quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến đề tài đã có một số công trình nghiên cứu đã được công bố như:
Hà Thị Hạnh, "Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân
hàng chính sách xã hội", Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội, 2003.
Võ Văn Lâm, "Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nông thôn trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 1999.
Võ Văn Lâm, "Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông
nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường", Luận án tiến sĩ Kinh tế,
Hà Nội, 2003.
Nguyễn Thị Liễu, "Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo của Ngân hàng chính
sách xã hội Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 2006.
Huỳnh Ngọc Thành, "Một số phương hướng và giải pháp đổi mới hoạt động của Ngân
hàng phục vụ người nghèo Đà Nẵng", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 2000.
Các công trình trên đã tiếp cận và giải quyết nhiều nội dung về mô hình tổ chức, cơ
chế hoạt động, chất lượng tín dụng của NHCSXH, và hoạt động tín dụng trên địa bàn
Quảng Nam.Tuy nhiên trên địa bàn Quảng Nam và đối với chi nhánh NHCSXH tỉnh
Quảng Nam chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài này.
Để thực hiện đề tài, tác giả có kế thừa những ý tưởng về cơ sở lý luận và một số nội
dung liên quan để phục vụ cho quá trình khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp của đề
tài. Tác giả cũng xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu
kết quả nêu trong đề tài này là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận, khảo sát phân tích thực trạng, đề xuất các giải pháp
nhằm đổi mới hoạt động của Chi nhánh NHCSXH Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu luận giải những căn cứ về sự ra đời và hoạt động của NHCSXH,
những vấn đề chung của chính sách tín dụng ưu đãi và quan điểm của Nhà nước ta về
chính sách tín dụng ưu đãi.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của Chi nhánh NHCSXH Quảng Nam qua 3 năm
triển khai đi vào hoạt động và 6 năm hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo (tiền
thân của NHCSXH). Qua đó rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và
nguyên nhân.
- Đề xuất và kiến nghị các giải pháp để đổi mới hoạt động của Chi nhánh NHCSXH
Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi: Trong khuôn khổ luận văn Thạc sỹ đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tổ chức
quản lý của NHCSXH tỉnh Quảng Nam thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi trong 9
năm hoạt động kể từ khi tái lập tỉnh Quảng Nam, từ năm 1997 đến nay (6 năm Ngân hàng
phục vụ người nghèo và 3 năm NHCSXH) về cơ cấu nguồn vốn cho vay cũng như thực
trạng về chất lượng các chương trình tín dụng đang cho vay như cho vay hộ nghèo, cho vay
giải quyết việc làm, cho vay xuất khẩu lao động, cho vay học sinh sinh viên, cho vay trồng
rừng...
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phân tổ thống kê, phân tích hoạt động kinh tế và xử lý hệ thống.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để xây dựng các chính sách phát triển kinh
tế xã hội (nhất là các chính sách xã hội, chính sách tín dụng) trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu
thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động
của Ngân hàng chính sách xã hội
1.1 Ngân hàng chính sách xã hội trong hệ thống ngân hàng Nhà nước
1.1.1 Hệ thống Ngân hàng ở nước ta hiện nay
ở nước ta hiện nay, hệ thống Ngân hàng gồm có Ngân hàng nhà nước, các tổ
chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.
* Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng nhà nước) là cơ quan
của Chính Phủ và là Ngân hàng Trung ương của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
- Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và
ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
- Hoạt động của Ngân hàng nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần
bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ngân hàng nhà nước là một pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà
nước; có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.
* Các tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật và các
quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt
động, các loại hình ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại
hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh
doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gởi không kỳ hạn, không làm dịch vụ
thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập theo pháp luật
nước ngoài.
Tổ chức tín dụng hợp tác là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng
theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và Luật hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu
là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tổ chức tín dụng hợp tác
gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng và các hình thức
khác.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thường xuyên là nhận tiền gởi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán.
Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn
huy động để cấp tín dụng.
1.1.2 Ngân hàng Chính sách xã hội
* Khái niệm về Ngân hàng chính sách ã hội
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường sẽ tồn tại những ngành
hàng, những khu vực, đối tượng khách hàng có sức cạnh tranh kém, không đủ các điều
kiện để tiếp cận với dịch vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại như các ngành
hàng mang tính lợi ích công cộng, những khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có
điều kiện thời tiết khắc nghiệt, chi phí đầu tư cao, rủi ro lớn, do đó các Ngân hàng
thương mại (NHTM) rất ít đầu tư vào khu vực này, mặt khác nhiều hộ dân, tổ chức
kinh tế ở vùng này thiếu vốn nhưng không đủ các điều kiện để vay vốn các Ngân hàng
thương mại.
Tuỳ điều kiện và quan điểm của mỗi quốc gia, Chính phủ sẽ thiết lập các kênh
tín dụng hoặc các ngân hàng chuyên biệt để thực hiện chính sách cho vay các nhóm đối
tượng này.
Như vậy, các khoản tín dụng chính sách là các khoản cho vay chỉ định để hổ trợ
các chính sách kinh tế và ngành công nghiệp của Chính phủ. Đây là việc cho vay phi
thương mại đối với các hoạt động bán tài chính mà không đáp ứng các tiêu chí thương
mại nhưng lại có tác động xã hội và chính trị quan trọng trong từng thời kỳ của mỗi
quốc gia. Các Ngân hàng được thiết lập để chuyên thực hiện tín dụng chính sách của
Chính phủ được gọi là loại hình Ngân hàng Chính sách.
Ngân hàng Chính sách có 2 loại:
- Ngân hàng Chính sách phục vụ các chính sách phát triển còn gọi là Ngân hàng
phát triển
- Ngân hàng Chính sách phục vụ các chính sách xã hội còn gọi là Ngân hàng
Chính sách xã hội.
Đối với nước ta Nhà nước thành lập các Ngân hàng Chính sách xã hội hoạt động
không vì mục đích lợi nhuận để phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách
khác; phục vụ miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn; phục vụ nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm thực hiện các chính sách
kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính phủ quy định chính sách tín dụng ưu đãi về vốn,
lãi suất, điều kiện, thời hạnvay vốn.
1.1.3. Quá trình hình thành Ngân hàng Chính sách xã hội ở nước ta
1.1.3.1. Giai đoạn hình thành Ngân hàng phục vụ người nghèo
Đầu thập niên 1990 thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế Việt Nam từ
nền kinh tế chỉ có 2 thành phần: Quốc doanh và tập thể đã chuyển sang nền kinh tế
nhiều thành phần, các thành phần kinh tế đều bình đẳng tự chủ trong sản xuất kinh
doanh cùng tiến đến mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Kết quả giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã khởi sắc,
từng bước kiềm chế được lạm phát, mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Đời
sống kinh tế, văn hoá và tinh thần của người dân được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên
theo quy luật phát triển không đồng đều trong xã hội, một số doanh nghiệp và bộ phận
dân cư có vốn, có tri thức, nhạy bén với cơ chế thị trường đã nhanh chóng trở nên giàu
có, họ là những doanh nghiệp và cá nhân tiên phong của thời đại các thành phần kinh tế
đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó còn một bộ phận doanh nghiệp
và dân cư do thiếu kinh nghiệm sản xuất, thiếu vốn sinh sống ở các vùng khó khăn
không hoà nhập kịp với cơ chế thị trường đã trở nên nghèo khó. Sự phân cực trải đều
làm cho phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét, khoảng cách thu nhập giữa người giàu
và người nghèo ngày càng tăng trong xã hội.
Cùng hoà nhập với tiến trình đổi mới của nền kinh tế, lĩnh vực tài chính Ngân
hàng cũng bước sang một trang sử mới, từng bước xoá bỏ bao cấp trong hoạt động
tín dụng, các Ngân hàng tự chủ về vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính,
nguồn vốn tín dụng chủ yếu “đi vay để cho vay”.
Trong hoạt động tín dụng, để bảo tồn nguồn vốn hoạt động của mình các Ngân
hàng thực hiện cho vay có tài sản thế chấp, được lựa chọn khách hàng, riêng Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) còn mở rộng cho vay sản suất
trong nông nghiệp nông thôn. Mâu thuẩn mới nảy sinh, một bộ phận dân nghèo không
có tài sản thế chấp, không vay được vốn Ngân hàng. Để duy trì sản xuất nhiều hộ phải
đi vay nặng lãi, bán lúa non, số khác cầm cố ruộng đất…làm cho người nghèo càng
nghèo thêm. Trước thực trạng trên, theo sáng kiến của NHNo & PTNT Việt Nam và
được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đồng ý, tháng 4 năm 1995, Quỹ cho
vay ưu đãi hộ nghèo đã được thiết lập với tổng số tiền ban đầu là 432 tỷ đồng, trên cơ
sở góp vốn từ 3 Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 100 tỷ đồng, Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam 200 tỷ đồng, NHNo & PTNT Việt Nam 132 tỷ đồng. Quỹ
được sử dụng để cho vay hộ nghèo thiếu vốn sản xuất theo cơ chế hộ nghèo vay vốn
không phải thế chấp tài sản, lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất của Ngân hàng Thương
Mại và giao cho NHNo & PTNT quản lý.
Từ kinh nghiệm thực tiễn về quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo NHNo & PTNT đã đề
xuất và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình với Chính phủ về sự cần thiết phải
có một tổ chức tín dụng của Nhà nước cùng với hệ thống chính sách phù hợp để hỗ trợ
tài chính đối với các hộ nghèo thiếu vốn sản xuất. Ngày 31 tháng 8 năm 1995 Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 525/ TTg thành lập Ngân hàng phục vụ
người nghèo.
Ngân hàng phục vụ người nghèo (NHNg) chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1
tháng 1 năm 1996 với số vốn điều lệ ban đầu là 500 tỷ đồng, bộ máy quản lý điều hành
gọn nhẹ. Việc cho vay uỷ thác hoàn toàn qua hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam.
Phương thức quản lý, cho vay uỷ thác bước đầu đã mang lại hiệu quả thiết thực, Nhà
nước tiết kiệm được chi phí quản lý do tận dụng được mạng lưới, con người, cơ sở vật
chất kỹ thuật sẵn có của NHNo & PTNT, đội ngũ cán bộ chuyên trách và kiêm nhiệm
cho NHNg được NHNo & PTNT trả lương. Toàn bộ nguồn vốn của NHNg đều tập
trung cho vay hộ nghèo, vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Từ nguồn vốn ban đầu
nhận bàn giao từ quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo là 518 tỷ đồng, sau 7 năm hoạt động
1996-2002 “ tổng nguồn vốn của NHNg đã lên tới 7.083 tỷ đồng, hơn 2 triệu hộ nghèo
được vay vốn để phát triển sản xuất với tổng dư nợ 5.700 tỷ đồng vốn vay đã giúp cho
hàng triệu hộ vươn lên thoát nghèo. NHNg thực sự trở thành địa chỉ tin cậy của người
nghèo thiếu vốn sản xuất, là công cụ điều hành hữu hiệu của chính quyền các cấp từ
Trung ương đến địa phương, là người bạn đồng hành của các tổ chức chính trị - xã hội
trên khắp mọi miền đất nước.
Có thể nói thành công của công tác tín dụng Ngân hàng phục vụ hộ nghèo cũng
là thành công của chủ trương đường lối chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước trên
mặt trận chống đói nghèo. Thành tựu xoá đói giảm nghèo của Việt Nam đã được các tổ
chức quốc tế và các bạn bè trên thế giới công nhận.
1.1.3.2. Sự ra đời của Ngân hàng Chính sách xã hội
Cuối năm 2002, trước yêu cầu của tiến trình hội nhập, đòi hỏi phải cơ cấu lại
hệ thống Ngân hàng, từng bước tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương
mại để các ngân hàng thương mại rãnh tay vươn ra nắm giữ thị trường chuẩn bị cho
tiến trình hội nhập thương mại khu vực và quốc tế.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2001-2010 đã nêu rõ “ Cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng. Phân biệt chức năng của
Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng thương mại Nhà nước, chức năng cho vay của Ngân
hàng Chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng thương mại [7].
Về mục tiêu xoá đói giảm nghèo, Đảng ta tiếp tục khẳng định trong nghị quyết
IX: “ Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công
nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm đối với những vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư
nghèo” [7].
Vì vậy, việc thiết lập một loại hình Ngân hàng Chính sách cho mục tiêu xói đói
giảm nghèo là một tất yếu khách quan cho tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của
Việt Nam.
Ngày 4/10/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định 78/ NĐ-CP về tín dụng
người nghèo và các đối tượng Chính sách khác nhằm sử dụng các nguồn lực tài chính
do Nhà nước huy động để cho người nghèo và các đối tượng Chính sách khác vay ưu
đãi phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN, ổn định xã hội.
Nghị định cho phép tập trung các nguồn lực tài chính của Nhà nước để thực hiện
tín dụng chính sách nhằm khắc phục những tồn tại của thời kỳ trước đây là nguồn vốn
đầu tư từ ngân sách Nhà nước nhưng do nhiều tổ chức cùng thực hiện nên việc đầu tư
dàn trải theo nhiều phương thức với nhiều mức lãi suất khác nhau, dẫn tới chồng chéo,
kém hiệu quả.
Theo đó, Nghị định cho phép thành lập NHCSXH để thực hiện tín dụng Chính
sách đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cơ sở tổ chức lại Ngân
hàng phục vụ người nghèo, tách ra khỏi hệ thống NHNo & PTNT.
Với những kết quả và kinh nghiệm sau 7 năm hoạt động, trên cơ sở những vướng
mắc và tồn tại về mô hình tổ chức quản lý và cơ sở hoạt động của Ngân hàng phục vụ
người nghèo để thiết lập Ngân hàng Chính sách xã hội của Chính phủ dành riêng thực
hiện mục tiêu xói đói giảm nghèo, phù hợp với điều kiện và thực tiễn của Việt Nam.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 131/2001/QĐ-TTg ngày 4/10/2002
về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội. Đây là một chủ trương đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta nhằm thông qua phương thức tín dụng để tập trung nguồn lực
tốt hơn với mục tiêu hỗ trợ tài chính đối với người nghèo và các đối tượng chính sách
khác, tạo cho họ có điều kiện tự cải thiện cuộc sống, từng bước xây dựng nước Việt
Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.4 Đặc thù của Ngân hàng Chính sách xã hội
1.1.4..1 Đặc thù về mô hình tổ chức
Sơ đồ 1.1: tổ chức hệ thống ngân hàng chính sách xã hội
Ghi chú: Quan hệ chỉ đạo
Quan hệ báo cáo
Ban chuyên
gia tư vấn
Uỷ ban nhân dân xã
Phường, ban xoá đói
Giảm nghèo xã, phường
Tổ tiết kiệm và
vay vốn
Hội sởchính
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
Chi nhánh tỉnh,
thành phố
Ban đại diện HĐQT
tỉnh, thành phố
Phòng giao dịch/ Chi
nhánh quận, huyện
Ban đại diện HĐQT
quận, huyện
Người vay Người vay Người vay Người vay
Phối hợp
Là một tổ chức tín dụng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do đó mô hình tổ chức
của Ngân hàng Chính sách xã hội cũng có những đặc điểm riêng với các tổ chức tín dụng khác.
Loại hình NHCSXH chủ yếu là Ngân hàng thuộc sỡ hữu Nhà nước, sử dụng một phần
nguồn tài chính của Nhà nước tham gia hỗ trợ cho các ngành, các khu vực. Vì vậy, mô hình
quản lý của loại hình ngân hàng này phải có sự hiện diện của một số cơ quan quản lý Nhà
nước có liên quan để tham gia quản trị ngân hàng, hoạch định các chính sách tạo lập nguồn
vốn, chính sách đầu tư với các khu vực, các đối tượng trong từng thời kỳ cho NHCSXH.
* Bộ máy quản trị NHCSXH
Tại cấp Trung ương: Có Hội đồng quản trị gồm 12 thành viên, 9 thành viên kiêm
nhiệm và 3 thành viên chuyên trách. 9 thành viên kiêm nhiệm gồm Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước, Bộ trưởng Bộ tài chính, Bộ KH & ĐT, Bộ LĐTB & XH, Bộ NN & PTNT, Uỷ ban dân
tộc, Văn phòng Chính phủ, lãnh đạo Hội nông dân,