Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mọi quốc gia,
đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải
quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề
quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành
thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiếp kịp khu vực và thế
giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm, Đảng và Nhà nước ta đã đề
ra nhi ều chủ chương, đường lối, chính sách thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo nhiều việc làm cho ng ười lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở
thành th ị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện
đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, v ăn minh.
Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn về tăng trưởng kinh tế,
Việt Nam cũng đạt được những kết quả quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho
người lao động, đời sống người lao động trong đó có tầng lớp thanh niên được cải thiện rõ
rệt. Thanh niên là lực lượng tiên phong trong phát triển chính trị, kinh tế và xã hội, đồng
thời cũng là lực lượng mang lại sự thay đổi và đổi mới. Thế giới việc làm tạo môi trường
cho thanh niên để họ tham gia một cách chủ động vào xã hội, cống hiến tài năng và tầm nhìn
cho tương lao, phát triển cam kết và các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, tính trung bình, tỷ lệ
thất nghiệp ở thanh niên cao hơn từ hai đến ba lần so với nhóm dân số lớn tuổi hơn, nhất là
thanh niên ở nông thôn, những vùng khó khăn.
88 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4384 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm
cho thanh niên ngoại thành Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mọi quốc gia,
đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải
quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề
quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành
thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiếp kịp khu vực và thế
giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm, Đảng và Nhà nước ta đã đề
ra nhiều chủ chương, đường lối, chính sách thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện
đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn về tăng trưởng kinh tế,
Việt Nam cũng đạt được những kết quả quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho
người lao động, đời sống người lao động trong đó có tầng lớp thanh niên được cải thiện rõ
rệt. Thanh niên là lực lượng tiên phong trong phát triển chính trị, kinh tế và xã hội, đồng
thời cũng là lực lượng mang lại sự thay đổi và đổi mới. Thế giới việc làm tạo môi trường
cho thanh niên để họ tham gia một cách chủ động vào xã hội, cống hiến tài năng và tầm nhìn
cho tương lao, phát triển cam kết và các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, tính trung bình, tỷ lệ
thất nghiệp ở thanh niên cao hơn từ hai đến ba lần so với nhóm dân số lớn tuổi hơn, nhất là
thanh niên ở nông thôn, những vùng khó khăn.
Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, ở khu vực ngoại thành Hà Nội, quá
trình đô thị hoá đang diễn ra nhộn nhịp. Đó là một quy luật phát triển tất yếu, đem lại một
cuộc sống văn minh, hiện đại hơn và một nền kinh tế phát triển hơn. Song, đằng sau những
biến đổi tích cực đó còn những vấn đề xã hội khác đang cần quan tâm giải quyết. Điển
hình hơn cả là vấn đề việc làm của thanh niên ngoại thành. Điều này được phát huy hiệu
quả hay không phụ thuộc một phần vào chính sách và sự quan tâm của chính quyền địa
phương và các cơ quan chức năng.
Điều đó đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống vấn đề
giải quyết việc làm cho thanh niên ở thành phố Hà Nội, đảm bảo kinh tế thành phố Hà Nội
có thể tăng trưởng cao, ổn định trong điều kiện Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới và khu vực. Để góp phần vào những nghiên cứu chung đó, tôi chọn vấn đề
“Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội” làm đề tài
luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề tài sau:
- Đề tài cấp nhà nước 70 A.02.02 “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở
nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”, của Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 1994.
- Đề tài cấp nhà nước KX-07-05-05: “Những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ
cấi xã hội nghề nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự báo và kiến nghị”, do tiến sĩ
Nguyễn Đình Tấn-Giám đốc Trung tâm Xã hội học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh làm chủ nhiệm, 1995.
- Đề tài “Quản lý nhà nước về việc làm ở Hà Nội”, luận án Tiến sĩ Kinh tế Trần Văn
Tuấn, Hà Nội, 1995.
- “Thị trường sức lao động thực trạng và giải pháp” của Phó Tiến sĩ Nguyễn Quang
Hiền, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1995.
- “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ 2001-2010” của tiến sĩ Nguyễn Hữu
Dũng, Tạp chí Lao động Xã hội, 2001.
- Đề tài “Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm qua thực tế ở Hà Nội”,
luận án Tiến sĩ Kinh tế Đỗ Thị Xuân Phương, Hà Nội, 2005.
- Đề tài “Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc”, luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 2002 bảo vệ tại Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với những cách
tiếp cận khác nhau.
Có thể thấy rằng, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào đã công bố, tập
trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố, tôi cũng tham khảo được nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc
những vấn đề được nghiên cứu trong các công trình khoa học đó, kết hợp với khảo sát thực
tế ở địa bàn thành phố Hà Nội, tôi có thể rút ra và kiến nghị những giải pháp giải quyết
việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn
của vấn đề lao động, việc làm, giải quyết việc làm cho thanh niên trong điều kiện nền kinh
tế thị trường ở nước ta nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Trên cơ sở đó, đề xuất
những giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về lao động, việc làm, giải
quyết việc làm cho thanh niên trong điều kiện kinh tế thị trường.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
- Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về hỗ
trợ giải quyết việc làm cho thanh niên, trong đó tập trung vào những biện pháp hỗ trợ từ
phía chính quyền thành phố.
Quản lý và giải quyết việc làm cho người lao động có phạm vi rất rộng và phức tạp.
Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên
thuộc 5 huyện ngoại thành Hà Nội (cũ) dưới góc độ quản lý nhà nước.
Về thời gian luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá vấn đề giải quyết việc làm cho
thanh niên trước ngày 01/8/2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách pháp luận của nhà nước, lý luận về
thất nghiệp, việc làm trong kinh tế học hiện đại.
Ngoài các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừa tượng
hoá là những phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên
cứu khoa học xã hội, nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn, phân pháp phân tích tổng
hợp, diễn dịch, quy nạp, phương pháp hệ thống, so sánh, thống kê...
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần phân tích và làm rõ những vấn đề cơ bản về lao động, việc làm,
giải quyết việc làm cho thanh niên, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên
ở thành phố Hà Nội, đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt
hơn việc làm cho thanh niên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của
thành phố Hà Nội.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý, nghiên cứu hoạch định
chính sách và chỉ đạo thực tiễn của thành phố Hà Nội đối với vấn đề giải quyết việc làm
cho thanh niên ngoại thành.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỖ TRỢ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở CÁC VÙNG
NGOẠI THÀNH TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
1.1. VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN KHU
VỰC NGOẠI THÀNH
1.1.1. Khái niệm và phân loại việc làm
1.1.1.1. Khái niệm việc làm
Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề có tính
chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp là một trong những biện
pháp quan trọng để từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo phát triển
bền vững. Đặc biệt đối với Việt Nam, tốc độ tăng dân số, nguồn lao động cao, trong khi
tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do khả năng cung về vốn, tư liệu sản
xuất còn thấp.
Về mặt bản chất, việc làm là quan hệ tích cực, sáng tạo của chủ thể việc làm với hoạt
động sống của mình, với ý nghĩa, nội dung và mục đích đặt ra. Tuỳ thuộc vào từng thời
điểm, không gian và từng chủ thể có cách tiếp cận vấn đề, đưa ra các khái niệm khác nhau
về việc làm.
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân
khẩu; nó thuộc loại vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Hiện nay, trên các
phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm “việc làm” và “thị trường lao động” không
hiếm khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc làm được đưa thêm hàng loạt chức năng
không đúng là tính chất của nó, còn thị trường lao động được tăng thêm tính chất tổng hợp.
Khái niệm việc làm và khái niệm lao động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không
hoàn toàn giống nhau. Việc làm không phải là hoạt động mà là những quan hệ xã hội giữa
con người, mà trước hết là những quan hệ kinh tế và pháp lý về việc đưa người lao động
vào hợp tác lao động cụ thể trong một chỗ làm việc xác định. Hoạt động lao động, trước
hết, đó là một quá trình, còn việc làm là tài sản của chủ thể mà bằng cách nào đấy được
đưa vào (hay là loại trừ ra) từ quá trình đó. Về giác độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương
quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong
quá trình sản xuất. Việc làm gắn với quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của người
lao động, đồng thời không đi ngược lại với lợi ích cộng đồng mà pháp luật quy định. Nói
cách khác, việc làm là công việc, những hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm và mang
lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu nhập cho các thành viên trong gia
đình, đồng thời góp một phần cho xã hội.
Nhà khoa học nổi tiếng trong kinh tế lao động người Nga Kotlia A., đã đưa ra khái
niệm việc làm như phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở mọi hình thái xã hội. Đồng thời,
việc làm là phạm trù tái sản xuất xã hội, mà không thể đồng nhất với lao động và sử dụng
sức lao động. Nó định rõ đặc tính dân số hoạt động kinh tế so với những yếu tố sản xuất
vật chất thể hiện quan hệ giữa con người về việc tham gia của họ vào trong sản xuất xã
hội.
Các nhà khoa học kinh tế Anh thì lại cho rằng “việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ
các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩ là tất cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống
của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ
của quá trình kinh tế” 4, tr.315. Theo quan điểm này thì tất cả những việc làm tạo ra thu nhập
mà không cần phân biệt có được pháp luật thừa nhận hay ngăn cấm đều được gọi là việc làm.
Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên xô lại cho rằng, “việc làm là sự tham
gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã hội
hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của các nông
trang viên” 4, tr.315. Theo khái niệm này thì những người đang đi học, đang tham gia
hoạt động trong các lực lượng vũ trang, những người nội trợ đều coi là người có việc làm.
Ngày nay, ở Liên Bang Nga khái niệm này được quy định rõ trong Bộ Luật Việc làm của
dân cư Liên bang Nga như sau: “việc làm là hoạt động của công dân nhằm thoả mãn
những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và không bị pháp luật Liên
bang ngăn cấm” 4, tr.315.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khái niệm việc làm chỉ đề cập đến trong mối
quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân thành hai loại: Có trả công
(những người làm thuê, học việc...) và không được trả công nhưng vẫn có thu nhập (những
người như giới chủ làm kinh tế gia đình...). Vì vậy, “việc làm có thể được định nghĩa như
một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích
cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất” 4, tr.314. Theo khái niệm này,
người có việc làm là người làm việc gì đó để được trả công, lợi nhuận được thanh toán
bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì
lợi ích hay vì thu nhập của gia đình (không được nhận tiền công hay hiện vật). Khái niệm
này đã được chính thức nêu tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của nhà thống kê lao động
(ILO.1993) và đã được áp dụng ở nhiều nước. Tuy nhiên, quan niệm này mang nghĩa rất
rộng, bao trùm mọi hoạt động lao động của con người. Trong thời đại ngày nay, với quan
niệm trên, có rất nhiều người sẽ thuộc diện có việc làm, bao gồm: những hoạt động mang
tính hợp pháp và những hoạt động mang tính phi pháp hay là những hoạt động lao động
của con người vi phạm pháp luật hoặc bị cho là vi phạm đạo đức xã hội và bị ngăn cấm ở
một số nước. Ví dụ, việc buôn bán heroin, mại dâm,... ở các nước như Hà Lan, Colômbia
thì không cấm, nhưng những hoạt động này bị cấm ở các nước khác, đặc biệt là các nước
Châu Á như: Việt Nam, Trung Quốc... Do vậy, khái niệm trên chỉ mang tính khái quát, là
cơ sở nghiên cứu vấn đề chung cho các nước trên thế giới.
Ở nước ta, trong thời kỳ tập trung bao cấp, nhà nước đã đứng ra giải quyết việc làm,
trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ đến việc sử dụng đãi ngộ đối
với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh. Trong giai đoạn này, những khái
niệm về thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ... hầu như không được
biết đến. Còn khái niệm “thất nghiệp” dường như là điều cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình
thức nào, trong nền kinh tế quốc dân, xu hướng quốc doanh hoá được coi là một điều tất
yếu. Hướng phấn đấu của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh là chuyển nhanh vào khu vực
quốc doanh, đối với mỗi công dân là vào đội ngũ viên chức nhà nước. Do đó việc làm và
người có việc làm được xã hội thừa nhận và trân trọng là những người làm việc trong
thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực Nhà nước và kinh tế tập thể.
Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, quan điểm về việc làm được hiểu là hoạt động lao
động không bị pháp luật ngăn cấm tạo thu nhập hoặc tạo ra điều kiện cho các thành viên
trong hộ gia đình có thêm thu nhập. Điều này cũng phù hợp với các nhìn nhận và phân tích
của Nhà nước ta, được quy định trong Điều 13 của Bộ luật Lao động: “Mọi hoạt động lao
động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”
27, tr.13.
Khái niệm việc làm của Bộ luật Lao động Việt Nam được cụ thể hoá, có thể hiểu
dưới ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhân cho bản thân.
- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình
thức tiền lương, tiền công cho công việc đó.
Theo quan niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai tiêu thức:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các
thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu
nhập của việc làm.
Thứ hai, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỏ rõ tính pháp lý
của việc làm, quan niệm đã rõ ràng hơn so với quan niệm của tổ chức ILO. Hoạt động có
ích không giới hạn về phạm vi, ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị
trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người
lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tư do
liên kết kinh doanh, tự do tìm kiếm việc là, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ của
pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực Nhà nước. Điều
này khẳng định tính chấp pháp lý trong hoạt động của người lao động thuộc khu vực ngoài
Nhà nước và các khu vực phi chính thức.
Hai điều kiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ để một hoạt
động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động tạo ra thu nhập, nhưng vi
phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma tuý, mại dâm... thì không được thừa nhận là
việc làm. Mặt khác một hoạt động là hợp pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập
cũng không được thừa nhận là việc làm.
Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đã có sự chuyển biến căn bản. Nếu như trước
đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc làm và bố trí việc làm cho
người lao động thì nay đã chuyển sang quan niệm tạo việc làm là trách nhiệm của Nhà
nước, doanh nghiệp, xã hội và của chính bản thân người lao động. Sự thay đổi quan niệm
về việc làm của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường, coi hoạt động lao động tao
ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm, có vai trò quan
trọng trong giải phóng sức lao động, thúc đẩy tạo mở việc làm và phát triển thị trường lao
động ở nước ta.
Quan niệm về việc làm nêu trên đã mang tính khái quát cao, tuy nhiên vẫn còn một
số hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, xét trên phạm vi rộng thì tính hợp pháp của một hoạt động lao động được
thừa nhận là việc làm tuỳ thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ. Có hoạt
động là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa nhận là việc làm ở nước khác.
Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình và xã hội đều tạo
ra thu nhập mặc dù nó góp phần làm giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê người làm
công.
Theo giáo trình Kinh tế Lao động của Khoa Kinh tế Lao động và Dân số- Trường đại
học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, khái niệm việc làm được hiểu “là phạm trù để chỉ trạng thái
phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để
sử dụng sức lao động đó” 48.
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỉ lệ giữa chi phí ban đầu (C)
như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...và chi phí về sức lao động (V). Quan
hệ tỉ lệ biểu diễn sự kết hợp giữa sức lao động với trình độ công nghệ sản xuất. Khi công
nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó cũng thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn
hoặc công nghệ sử dụng nhiều sức lao động. Chẳng hạn, trong điều kiện kỹ thuật thủ công
một đơn vị chi phí ban đầu về tư liệu sản cuất, vốn có thể kết hợp với nhiều đơn vị sức lao
động. Còn trong điều kiện tự động hoá, sản xuất theo dây chuyền hiện đại thì chi phí về
vốn, thiết bị, công nghệ rất cao, nhưng chỉ đòi hỏi sức lao động với tỉ lệ thấp. Do đó, tuỳ
từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù hợp để có thể tạo việc làm cho người lao
động.
Trong điều kiện của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự áp dụng các thành tựu của khoa
học công nghệ vào sản xuất mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ tỉ lệ giữa C và V thường
xuyên biến đổi theo các dạng khác nhau.
- Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động có nghĩa là mọi người có khả năng
lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Nếu chỉ xem xét trên phương diện sử dụng hết
thời gian lao động có nghĩa là việc làm đầy đủ. Trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ
này cho phép sử dụng triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động ta có khái
niệm việc làm hợp lý.
- Sự không phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động sẽ dẫn đến thiếu nguồn
nhân lực tức thiếu việc làm