Ngày nay, toàn cầu hoá là xu thế khách quan đang thu hút các quốc gia vào
quỹ đạo này. Hệ quả tất yếu của xu thế đó là tự do hoá thị trƣờng tài chính, tự do
hoá thị trƣờng tiền tệ. Tiến trình hội nhập chủ động của Việt Nam đƣợc đánh dấu
bởi một chuỗi các sự kiện nhƣ: gia nhập ASEAN; tham gia AFTA, APEC; ký kết
Hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt - Mỹ, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ
đầu tƣ với Nhật Bản Đặc biệt tháng 11/2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO).
Để hội nhập thành công, cạnh tranh là vấn đề quan trọng luôn đƣợc đặt lên vị
trí hàng đầu trong nền kinh tế nói chung và trong chiến lƣợc phát triển của một ngân
hàng nói riêng. Cạnh tranh càng trở nên cấp thiết hơn khi chúng ta phải thực hiện
các cam kết mở cửa thị trƣờng dịch vụ tài chính ngân hàng khi hội nhập sâu vào nền
kinh tế, trong khi đó năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
còn ở mức thấp. Các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam muốn tồn tại và phát triển,
bắt kịp với nhịp độ hội nhập của thế giới thì không còn cách nào khác là phải khai
thác triệt để lợi thế và nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam hiện nay là một trong bốn Ngân
hàng thƣơng mại quốc doanh lớn nhất của Việt Nam. Trong bối cảnh mới về hội
nhập, việc phân tích thực trạng về năng lực cạnh tranh, đánh giá toàn diện những
điểm mạnh, yếu, cơ hội và thách thức để từ đó đề xuất giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt nam là hết sức cấp thiết. Đề tài:
“Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế 2007-2010” là vấn đề vừa có ý nghĩa
lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao.
115 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2575 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế 2007-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cơ chế phát triển sạch theo nghị định thư Kyôtô khả năng và triển vọng tham gia của Việt
Nam BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
------------------
TRẦN THỊ NGUYỆT
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN
HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2007 - 2010
Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRUNG VÃN
HÀ NỘI - 2007
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, toàn cầu hoá là xu thế khách quan đang thu hút các quốc gia vào
quỹ đạo này. Hệ quả tất yếu của xu thế đó là tự do hoá thị trƣờng tài chính, tự do
hoá thị trƣờng tiền tệ. Tiến trình hội nhập chủ động của Việt Nam đƣợc đánh dấu
bởi một chuỗi các sự kiện nhƣ: gia nhập ASEAN; tham gia AFTA, APEC; ký kết
Hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt - Mỹ, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ
đầu tƣ với Nhật Bản…Đặc biệt tháng 11/2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO).
Để hội nhập thành công, cạnh tranh là vấn đề quan trọng luôn đƣợc đặt lên vị
trí hàng đầu trong nền kinh tế nói chung và trong chiến lƣợc phát triển của một ngân
hàng nói riêng. Cạnh tranh càng trở nên cấp thiết hơn khi chúng ta phải thực hiện
các cam kết mở cửa thị trƣờng dịch vụ tài chính ngân hàng khi hội nhập sâu vào nền
kinh tế, trong khi đó năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
còn ở mức thấp. Các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam muốn tồn tại và phát triển,
bắt kịp với nhịp độ hội nhập của thế giới thì không còn cách nào khác là phải khai
thác triệt để lợi thế và nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam hiện nay là một trong bốn Ngân
hàng thƣơng mại quốc doanh lớn nhất của Việt Nam. Trong bối cảnh mới về hội
nhập, việc phân tích thực trạng về năng lực cạnh tranh, đánh giá toàn diện những
điểm mạnh, yếu, cơ hội và thách thức để từ đó đề xuất giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt nam là hết sức cấp thiết. Đề tài:
“Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế 2007-2010” là vấn đề vừa có ý nghĩa
lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có những công trình khoa học, các bài
nghiên cứu đã công bố nhƣ:
2
- Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
- CIEM và UNDP (2004), Nâng cao năng lực cạnh tranh Quốc gia, NXB
Giao thông vận tải, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Quy (2005), Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương
mại trong xu thế hội nhập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Thanh Bình, Phạm Huy Hùng (2005), Nâng cao năng lực cạnh tranh
của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế, Công trình nghiên cứu khoa học ngành ngân hàng, Ngân hàng Nhà
nƣớc Việt Nam.
Trong các nghiên cứu trên, vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh
tranh đã đƣợc tiếp cận ở những góc độ, những ngành và lĩnh vực cụ thể khác nhau.
Tuy nhiên chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể về mặt lý luận,
thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn
2007-2010. Đề tài này có mục đích và đối tƣợng nghiên cứu độc lập riêng, do đó
không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào nói trên.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận cơ bản và đánh giá thực tiễn về
năng lực cạnh tranh, đề tài đƣa ra những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng Đầu tƣ & Phát triển Việt Nam giai đoạn hội nhập 2007-2010.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của ngân
hàng thƣơng mại Việt Nam giai đoạn hậu WTO.
- Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ
và Phát triển Việt Nam trƣớc những cơ hội và thách thức của giai đoạn hậu
WTO.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam trong giai đoạn hậu WTO (2007-2010).
3
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ & Phát
triển Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
o Về không gian, đề tài nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
Đầu tƣ & Phát triển Việt Nam theo Lộ trình mở cửa hệ thống ngân
hàng Việt Nam trong cam kết gia nhập WTO.
o Về thời gian, đề tài tập trung phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh
trong giai đoạn 2001-2006 và đề xuất giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh cho giai đoạn hậu WTO 2007-2010.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa vào phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và quan
điểm, chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về phát triển các Ngân hàng thƣơng mại
trong giai đoạn hội nhập.
Đề tài này cũng sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, kết hợp phƣơng
pháp duy vật lịch sử, phƣơng pháp logic và lịch sử, khái quát hóa và cụ thể hóa.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp khoa học khác nhƣ phƣơng pháp
thống kê, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp những tài liệu
thu thập để đánh giá tình hình hiện tại và dự báo tƣơng lai.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, danh mục từ viết tắt, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận văn đƣợc bố cục thành 3 chƣơng:
- Chương 1: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hậu WTO;
- Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hậu WTO;
- Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực canh tranh của Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong giai đoạn hội nhập 2007-2010.
4
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP HẬU WTO
1.1. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI (NHTM)
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của NHTM
1.1.1.1. Cạnh tranh là gì?
Theo từ điển Longman của Anh thì “cạnh tranh là sự nỗ lực của một bên
nhằm có được ưu thế hơn những đối thủ của mình trong kinh doanh”[42, tr.20]. Hoặc
theo Giáo trình Marketing Quốc tế, Đại học Ngoại thƣơng Hà Nội do PGS.TS
Nguyễn Trung Vãn làm chủ biên thì “cạnh tranh là quá trình giành giật những lợi
thế từ phía đối thủ về phía doanh nghiệp mình nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh
tối ưu”[35, tr.37]. Nhƣ vậy, xét về khía cạnh kinh tế, cạnh tranh đƣợc hiểu là quá
trình ganh đua hoặc tranh giành giữa ít nhất hai đối thủ để có đƣợc những nguồn lực
hoặc ƣu thế về sản phẩm hoặc khách hàng về phía mình nhằm đạt đƣợc lợi ích tối đa.
Cạnh tranh là một trong những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trƣờng.
Nó là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng cải tiến hoạt động sản xuất
kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lƣợng sản phẩm. Vì
vậy, cạnh tranh cũng là động lực nâng cao hiệu quả hoạt động của mỗi nền kinh tế.
Để đạt đƣợc những lợi thế trong kinh doanh, doanh nghiệp phải dựa trên những
NLCT nhất định sẽ đƣợc tác giả trình bày chi tiết ở phần dƣới đây.
1.1.1.2. Năng lực cạnh tranh (NLCT) của doanh nghiệp nói chung
Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực hay lợi thế cạnh tranh
song cho đến nay, tất cả các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, rất khó có thể đƣa
ra một định nghĩa chuẩn cho NLCT trong mọi trƣờng hợp. Đến thời gian gần đây,
nổi bật nhất trong các học thuyết về NLCT là học thuyết của Michael Porter với
những nghiên cứu khá toàn diện về NLCT của các doanh nghiệp, ngành sản xuất
cũng nhƣ của một quốc gia. Tuy nhiên, Michael Porter cũng thừa nhận không thể
đƣa ra một định nghĩa tuyệt đối về khái niệm NLCT của doanh nghiệp. Theo ông,
5
“Để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh
tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả năng
khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức lợi nhuận cao hơn trung bình.
Muốn duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp càng ngày càng vươn tới những
lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp những hàng hoá hay dịch vụ
có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn”[44, tr. 10]
Nhƣ vậy, Michael Porter đã tiếp cận khái niệm NLCT ở khía cạnh động. Để
cạnh tranh thành công, doanh nghiệp phải luôn thay đổi để có sản phẩm mới, quá
trình sản xuất mới, thị trƣờng mới. Ông cũng đã nhấn mạnh NLCT còn bao gồm
việc doanh nghiệp phải duy trì và liên tục tăng cƣờng lợi thế cạnh tranh của mình.
1.1.1.3. NLCT của NHTM nói riêng
a. Khái niệm và những đặc điểm chung của NHTM
Ra đời từ rất sớm, NHTM đƣợc coi là mạch máu lƣu thông, là chất dầu bôi
trơn cho cỗ máy nền kinh tế thị trƣờng. Nhà kinh tế học Peter S.Rose cho rằng:
“NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán nhằm thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế” [43, tr. 7].
Tại điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam cũng nêu rõ:
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và
mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm NHTM, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã và các
loại hình ngân hàng khác. [28, tr. 12]
Nhƣ vậy, theo định nghĩa nào thì NHTM cũng đƣợc hiểu một loại hình
doanh nghiệp đặc biệt vì hàng hoá sử dụng trong kinh doanh là tiền tệ. NHTM đóng
vai trò tổ chức tài chính trung gian, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ. Hoạt
động cơ bản và thƣờng xuyên của NHTM là nhận tiền gửi của khách hàng (huy
động vốn) với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm
6
vụ chiết khấu và cung ứng các dịch vụ thanh toán (sử dụng vốn). Theo xu hƣớng
chung hiện nay, các NHTM đã mở rộng nhiều loại hình nghiệp vụ hiện đại rất
phong phú và đa dạng nhằm thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của xã hội.
b. NLCT của NHTM
Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng là việc sử
dụng tối đa các nguồn lực của mình so với các đối thủ để khẳng định vị trí của mình
trên thị trƣờng tài chính. Nói một cách đầy đủ hơn:
NLCT của NHTM là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển
những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được mức lợi nhuận cao
hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng, đồng thời đảm bảo sự hoạt
động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến
động bất lợi của môi trường kinh doanh.[37, tr. 20]
1.1.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá NLCT của NHTM
Trong lĩnh vực ngân hàng hiện chƣa có một phƣơng pháp luận chung để
đánh giá NLCT của các ngân hàng hay hệ thống các ngân hàng đã đƣợc kiểm
nghiệm và chứng minh. Tuy nhiên, hệ thống đánh giá ngân hàng CAMELS và lý
thuyết về NLCT của Michael Porter cho thấy, việc đánh giá NLCT của một ngành,
cụ thể ở đây là đánh giá các NHTM, không chỉ bao gồm việc tập trung nghiên cứu
những nguồn lực nội tại hiện có của ngân hàng, hay chỉ tiêu hoạt động của ngân
hàng đó, hay vị thế và uy tín, mà còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác nhƣ
đối thủ cạnh tranh, sản phẩm thay thế, các nguồn lực mà ngân hàng có thể thích ứng
với những thay đổi thế nào, ngân hàng có khả năng thay đổi chiến lƣợc cạnh tranh
của mình không, các điều kiện môi trƣờng vĩ mô sẽ tác động nhƣ thế nào đến khả
năng đó của ngân hàng trƣớc những thách thức và thời cơ mới. Nhƣ vậy, hệ thống
chỉ tiêu đánh giá NLCT của hệ thống ngân hàng ở một quốc gia sẽ bao gồm hai bộ
phận: Các chỉ tiêu đánh giá NLCT nội tại của các NHTM trên góc độ vi mô và các
chỉ tiêu đánh giá tác động của những nhân tố ảnh hƣởng đến NLCT của hệ thống
ngân hàng.
Trong phạm vi của luận văn, tác giả xin đƣa ra một số chỉ tiêu cơ bản sau để
đánh giá NLCT của NHTM trên khía cạnh tài chính và phi tài chính sau:
7
1.1.2.1. Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của một NHTM là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng
vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở mức
vốn tự có, chất lƣợng tài sản, khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời trong hoạt
động kinh doanh.
a. Mức vốn tự có (Capital)
Yếu tố đầu tiên đƣợc nhắc đến nhƣ là điều kiện tiên quyết cho việc thành lập
một NHTM chính là vốn tự có. Theo Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam, “vốn
tự có là giá trị thực của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản “Nợ” khác của
tổ chức tín dụng theo quy định của NHNN. Vốn tự có là căn cứ để tính toán các tỷ
lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng”[28, tr. 3]
Với định nghĩa nhƣ vậy, vốn tự có thƣờng có chức năng bảo vệ NHTM, giúp
NHTM chống lại rủi ro phá sản, bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ; tạo
niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài chính của
ngân hàng; cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trƣởng và phát triển các hình
thức dịch vụ mới, chƣơng trình và trang thiết bị mới; và đảm bảo duy trì ổn định lâu
dài của NHTM. Vốn tự có bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2, trong đó:
Vốn cấp 1 (vốn cơ sở - core capital) bao gồm giá trị ghi sổ của cổ phiếu
thƣờng, cổ phiếu ƣu đãi chƣa đến hạn, lợi nhuận không chia, thu nhập từ công ty
con, tài sản vô hình xác định không tính tới danh tiếng của công ty.
Vốn cấp 2 (vốn bổ sung – supplemental capital) bao gồm các khoản mục dự
phòng tổn thất từ cho vay và cho thuê, các công cụ vốn nợ thứ cấp, các khoản nợ
cho phép chuyển đổi,v.v..
Các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trƣờng tài chính thƣờng đòi hỏi vốn
ngân hàng phải phát triển tƣơng ứng với sự tăng trƣởng của danh mục cho vay và
những tài sản rủi ro khác. Tiêu chuẩn quốc tế quy định ngân hàng không đƣợc cho
vay quá 15% vốn và thặng dƣ vốn đối với một khách hàng. Đối với các khoản vay
đƣợc đảm bảo an toàn thì giới hạn này là 25%.
8
Đánh giá mức vốn tự có của NHTM đƣợc thực hiện qua đánh giá quy mô
vốn chủ sở hữu và Tỷ lệ an toàn vốn (CAR - Capital Adequacy Ratio - đƣợc tính
bằng Vốn tự có trên Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro1.
Hiệp ƣớc Uỷ ban giám sát về hoạt động Ngân hàng (BASEL)2 về tiêu chuẩn
vốn quốc tế quy định CAR tối thiểu phải đạt 8% trong đó vốn cấp 2 không vƣợt quá
50% vốn cấp 1. Tỷ lệ CAR cao cho thấy khả năng về tài chính mạnh, tạo đƣợc uy
tín, sự tin cậy, yên tâm cho khách hàng. Vì vậy, có thể khẳng định vốn tự có phản
ánh sức mạnh tài chính của một ngân hàng và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân
hàng đó. Đây là một trong những nguồn lực quan trọng nhất quyết định NLCT của
một ngân hàng.
b. Chất lượng tài sản (Asset Quality)
Tài sản của một NHTM thể hiện ở phần “Có” trong Bảng cân đối kế toán của
NHTM đó. Quy mô, cơ cấu và chất lƣợng tài sản “Có” sẽ quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của NHTM. Tài sản “Có” bao gồm tài sản sinh lời (chiếm từ 80-90% tổng tài
sản “Có”) và tài sản không sinh lời (chiếm từ 10-20% tổng tài sản “Có”). Chất lƣợng
tài sản của NHTM là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về tài chính,
năng lực quản lý của một tổ chức tín dụng. Đánh giá Chất lƣợng tài sản đƣợc thể hiện
qua các chỉ tiêu: tỷ lệ nợ xấu3 trên tổng Tài sản “Có”, mức độ lập dự phòng và khả
năng thu hồi các khoản nợ xấu, mức độ tập trung và đa dạng hoá danh mục tín dụng….
c. Khả năng thanh khoản của ngân hàng (Liquidity)
Khả năng thanh khoản của một ngân hàng là khả năng sẵn sàng chi trả, thanh toán
cho khách hàng và bù đắp những tổn thất khi xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
1
Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro bao gồm: tài sản theo tỷ lệ rủi ro trong bảng cân đối kế toán và các
khoản mục nằm ngoài bảng cân đối kế toán theo tỷ lệ rủi ro. Các tỷ lệ rủi ro này đƣợc quy định cho từng
hạng mục tài sản. Khi xác định mức độ an toàn vốn của các NHTM ngƣời ta không căn cứ vào tổng tài sản
của ngân hàng mà căn cứ vào tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro.
2
Đây là một Uỷ ban đƣợc thành lập bởi các nhà điều hành các ngân hàng trung ƣơng tại 10 Quốc gia vào
năm 1974 nhằm cải thiện các hƣớng dẫn giám sát mà các ngân hàng trung ƣơng áp dụng đối với các ngân
hàng bán buôn và bán lẻ. Uỷ ban đƣa ra các hƣớng dẫn giám sát ngân hàng đối với các nƣớc thành viên và
không thành viên và hỗ trợ các chính quyền nhằm thực thi các khuyến nghị của Uỷ ban.
3
Nợ xấu là những khoản nợ không còn khả năng trả hoặc có nguy cơ không trả đƣợc. Tại Việt Nam, theo
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2004 của Ngân hàng Nhà nƣớc, các khoản nợ đƣợc
phân loại là Nhóm 1-Nợ đủ tiêu chuẩn, Nhóm 2-Nợ cần chú ý (Nợ quá hạn dƣới 90 ngày), Nhóm 3-Nợ dƣới
tiêu chuẩn (Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày), Nhóm 4- Nợ nghi ngờ (Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày) và Nợ
có khả năng mất vốn (Nợ quá hạn từ trên 360 ngày). Nợ nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 đƣợc coi là nợ xấu.
9
Khả năng thanh khoản của một ngân hàng thể hiện qua chỉ tiêu định lƣợng:
Chỉ tiêu thanh khoản (cho biết tỷ trọng tài sản thanh khoản (dƣới 1 năm) trên tổng
tài sản), và chỉ tiêu định tính về năng lực quản lý thanh khoản của NHTM và đặc
biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của ngân hàng đó.
Theo thông lệ quốc tế, chỉ tiêu thanh khoản đạt 30% đƣợc coi là an toàn, đảm
bảo cho ngân hàng có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu rút tiền hay thanh toán tức thời với
số lƣợng lớn.
d. Khả năng sinh lời (Earnings)
Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động của một ngân hàng đồng thời
phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng đó. Đây là chỉ tiêu tổng hợp
đánh giá hiệu quả kinh doanh và mức độ phát triển của một NHTM. Để đánh giá
khả năng sinh lời của NHTM – ngƣời ta thƣờng sử dụng các chỉ tiêu sau: giá trị
tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng trƣởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận
(cho biết lợi nhuận đƣợc hình thành từ nguồn nào) và đặc biệt là các chỉ tiêu tỉ suất
lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE), lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA), thu
nhập lãi cận biên (NIM)…
ROE là chỉ tiêu đo lƣờng khả năng sinh lời từ vốn tự có. Nói cách khác, ROE
đánh giá lợi ích mà cổ đông (chủ sở hữu ngân hàng) có đƣợc từ nguồn vốn bỏ ra. Chỉ
tiêu ROE luôn nhận đƣợc sự quan tâm từ hai phía chủ ngân hàng và nhà quản lý. Các
nhà quản trị ngân hàng luôn muốn tăng ROE để thoả mãn yêu cầu của cổ đông thông
qua nhiều biện pháp nhƣ kiểm soát rủi ro có hiệu quả, hạn chế khoản vay xấu…
ROA là một thông số cho biết khả năng quản lý của Ban quản trị ngân hàng
trong việc chuyển tài sản của ngân hàng thành lợi nhuận ròng. ROA càng lớn thể
hiện hiệu quả kinh doanh của ngân hàng là cao và cơ cấu tài sản sinh lời và không
sinh lời (earning assets và non-earning assets) khá hợp lý. Tuy nhiên, ROA quá cao
không phải là tín hiệu tốt đối với các ngân hàng. Trong tình huống đó, ngân hàng
đang rơi vào tình trạng rủi ro cao do lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro có mối quan hệ
thuận chiều.
Một ngân hàng đƣợc coi là có khả năng sinh lời cao nếu ROE cao hơn mức lợi
nhuận kỳ vọng với các cổ phiếu đầu tƣ trên thị trƣờng đó và ROA đạt từ 1,2% đến 1,5%.
10
Tỷ suất thu nhập lãi cận biên (NIM) đo lƣờng mức chênh lệch giữa thu lãi từ
tài sản sinh lời và chi lãi trên Tổng tài sản sinh lời của ngân hàng. Ngân hàng có thể
đạt đƣợc NIM hiệu quả trong khoảng 1,8%-3% thông qua việc cân đối cơ cấu tài
sản hợp lý và nguồn vốn có chi phí thấp.
Ngoài ba chỉ tiêu cơ bản kể trên, có thể đánh giá khả năng sinh lời của ngân
hàng qua các chỉ tiêu: Tỷ lệ thu nhập cận biên ngoài lãi, thu nhập trên cổ phiếu
(Earning per share – EPS), tỷ lệ tài sản sinh lời…Việc đánh giá hoạt động của ngân
hà