Hệ thống ngân hàng thương mại với chiến lược huy động vốn trong và ngoài nước đang là vấn đề hết sức quan trọng cả về lý luận khoa học và thực tiễn trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trước vận hội mới, thách thức mới của quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Trong điều kiện kinh tế Việt Nam đã, đang và chủ yếu trong tương lai là một bộ phận của chiến lược kinh tế toàn cầu, đối với các nhà kinh tế - đặc biệt là các nhà kinh tế trong lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng không thể không nhận thức và vận dụng các vấn đề về vốn, hình thức tạo vốn, thị trường vốn trong các nền kinh tế thị trường vào thực tiễn Việt Nam để trên cơ sở đó xác lập một chiến lược huy động vốn qua hệ thống Ngân hàng thương mại nhằm thỏa mãn nhu cầu vốn cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hệ thống Ngân hàng thương mại nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành “ kênh huy động vốn quan trọng ” đóng vai trò chủ chốt trong nhu cầu giao lưu vốn của nền kinh tế, thực hiện huy động một khối lượng đáng kể vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy đầu tư cho sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.
Tuy nhiên các Ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình vì nguồn vốn huy động được còn chiếm tỷ trọng nhỏ so với nguồn vốn của xã hội; Chất lượng tín dụng thấp; Tỷ lệ nợ quá hạn lớn Bên cạnh đó, thị trường vốn phát triển chậm, tỷ lệ sử dụng tiền mặt còn lớn, các dịch vụ Tài chính - Ngân hàng chưa đa dạng. Nguồn vốn trong dân cư chưa được huy động đúng mức, chưa có chính sách đủ mạnh để khuyến khích dân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Xung quanh những vấn đề tưởng như xưa cũ này của kinh tế thị trường lại đặt ra nhiều điều mới mẻ và cực kỳ bức xức đối với một nước bắt đầu bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới - đầy ắp những cạnh tranh, cam go và vận hội để tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh đó chúng ta không thể không thành công trên con đường hiện đại hóa nền kinh tế đất nước nếu không sử dụng linh hoạt và phù hợp các công cụ về vốn.
Do đó, để đủ sức cạnh tranh hội nhập khu vực và quốc tế các ngân hàng thương mại cả nước nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nói riêng phải có chiến lược về huy động vốn, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, vốn bên ngoài là quan trọng. Nhất là tại thành phố lớn như thủ đô Hà Nội, bên cạnh sự cạnh tranh quyết liệt trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại thì nhu cầu vốn để phục vụ nhu cầu của khách hàng đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn là rất lớn.
Trong bối cảnh đó, dù bản thân Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội luôn luôn giữ vững vị trí quan trọng và đóng góp lớn trong sự phát triển của cả nước nói chung và Thành phố Hà Nội nói riêng. Nhưng nếu ngân hàng không có sự mở rộng quy mô vốn không có cơ cấu vốn hợp lý trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì không thể tồn tại và phát triển được.
Chính vì thế, huy động vốn là vấn đề nóng bỏng đối với Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội trong quá trình phát triển của mình. Do đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội ” làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp của mình.
Nội dung Luận văn tốt nghiệp gồm 3 phần:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
ChươngIII: Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
87 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2159 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1:Tình hình biến động vốn huy động .32
Bảng 2: Tình hình cho vay theo thời hạn .34
Bảng 3: Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn .39
Bảng 4: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền .42
Bảng 5: Cơ cấu vốn huy động theo hình thức huy động .45
Bảng 6: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng .50
Biểu đồ 1: Biến động vốn huy động .32
Biểu đồ 2: Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn .40
Biểu đồ 3: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền .42
Biểu đồ 4: Cơ cấu vốn huy động theo hình thức huy động .45
Biểu đồ 5: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng huy động .50
LỜI CẢM ƠN!
Để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này, em xin cảm ơn sâu sắc tới các cô chú, anh chị công tác tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã tạo nhiều điều kiện và giúp đỡ em trong quá trình thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn tới T.S Hoàng Xuân Quế - người đã nhiệt tình chỉ bảo và hướng dẫn em trong thời gian thực tập tốt nghiệp. Cùng với vốn hiểu biết sâu sắc về Ngân hàng thương mại nói chung và huy động vốn ở Ngân hàng thương mại Nhà nước nói riêng, thầy đã hướng dẫn em tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu để thực hiện Luận văn tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống ngân hàng thương mại với chiến lược huy động vốn trong và ngoài nước đang là vấn đề hết sức quan trọng cả về lý luận khoa học và thực tiễn trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trước vận hội mới, thách thức mới của quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Trong điều kiện kinh tế Việt Nam đã, đang và chủ yếu trong tương lai là một bộ phận của chiến lược kinh tế toàn cầu, đối với các nhà kinh tế - đặc biệt là các nhà kinh tế trong lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng không thể không nhận thức và vận dụng các vấn đề về vốn, hình thức tạo vốn, thị trường vốn trong các nền kinh tế thị trường vào thực tiễn Việt Nam để trên cơ sở đó xác lập một chiến lược huy động vốn qua hệ thống Ngân hàng thương mại nhằm thỏa mãn nhu cầu vốn cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hệ thống Ngân hàng thương mại nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành “ kênh huy động vốn quan trọng ” đóng vai trò chủ chốt trong nhu cầu giao lưu vốn của nền kinh tế, thực hiện huy động một khối lượng đáng kể vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy đầu tư cho sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.
Tuy nhiên các Ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình vì nguồn vốn huy động được còn chiếm tỷ trọng nhỏ so với nguồn vốn của xã hội; Chất lượng tín dụng thấp; Tỷ lệ nợ quá hạn lớn…Bên cạnh đó, thị trường vốn phát triển chậm, tỷ lệ sử dụng tiền mặt còn lớn, các dịch vụ Tài chính - Ngân hàng chưa đa dạng. Nguồn vốn trong dân cư chưa được huy động đúng mức, chưa có chính sách đủ mạnh để khuyến khích dân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Xung quanh những vấn đề tưởng như xưa cũ này của kinh tế thị trường lại đặt ra nhiều điều mới mẻ và cực kỳ bức xức đối với một nước bắt đầu bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới - đầy ắp những cạnh tranh, cam go và vận hội để tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh đó chúng ta không thể không thành công trên con đường hiện đại hóa nền kinh tế đất nước nếu không sử dụng linh hoạt và phù hợp các công cụ về vốn.
Do đó, để đủ sức cạnh tranh hội nhập khu vực và quốc tế các ngân hàng thương mại cả nước nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nói riêng phải có chiến lược về huy động vốn, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, vốn bên ngoài là quan trọng. Nhất là tại thành phố lớn như thủ đô Hà Nội, bên cạnh sự cạnh tranh quyết liệt trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại thì nhu cầu vốn để phục vụ nhu cầu của khách hàng đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn là rất lớn.
Trong bối cảnh đó, dù bản thân Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội luôn luôn giữ vững vị trí quan trọng và đóng góp lớn trong sự phát triển của cả nước nói chung và Thành phố Hà Nội nói riêng. Nhưng nếu ngân hàng không có sự mở rộng quy mô vốn không có cơ cấu vốn hợp lý trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì không thể tồn tại và phát triển được.
Chính vì thế, huy động vốn là vấn đề nóng bỏng đối với Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội trong quá trình phát triển của mình. Do đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội ” làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp của mình.
Nội dung Luận văn tốt nghiệp gồm 3 phần:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
ChươngIII: Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
Do còn hạn chế về mặt lý luận cũng như kiến thức thực tiễn nên Luận văn tốt nghiệp của em không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, em rất mong được sự chỉ bảo góp ý của cô chú và các thầy cô giáo để Luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG IMỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Để bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng phải có một số vốn nhất định. Đây là điều kiện không thể thiếu được để một ngân hàng thành lập và tiến hành các hoạt động kinh doanh. Vốn kinh doanh của các ngân hàng thương mại là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các tài sản Có của ngân hàng. Vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như vốn chủ sở hữu, vốn huy động tiền gửi, vốn từ phát hành tín phiếu…..
Như vậy, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là toàn bộ các nguồn tiền ngân hàng tạo lập và huy động được để cho vay, đầu tư hay đáp ứng các nhu cầu khác nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn của ngân hàng mà chúng ta quan tâm chủ yếu là nguồn vốn huy động trong quá trình hoạt động.
Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
1.1.1 Nguồn vốn chủ sở hữu
Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép thành lập ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. Vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản, là điểm xuất phát để tổ chức hoạt động ngân hàng, đồng thời cũng là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Chính vì vậy quy mô vốn chủ sở hữu là yếu tố quyết định quy mô vốn và quy mô tài sản có.
Xét về đặc điểm, nguồn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số nguồn vốn hoạt động kinh doanh của ngân hàng (khoảng 5% - 8%) nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng bởi vì nó không những thể hiện thực lực quy mô của ngân hàng mà còn là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác và đây cũng là nguồn vốn khởi đầu tạo nên uy tín của ngân hàng đối với khách hàng.
Theo đà phát triển như hiện nay thì nguồn vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối, song nó vẫn luôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu nguồn vốn. Vốn tự có càng lớn thì sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi nền kinh tế và hoạt động ngân hàng gặp khó khăn. Vốn tự có càng lớn thì khả năng sinh lời càng lớn vì nó có thể đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng, có nhiều cơ hội để kinh doanh hơn trên cơ sở nguồn vốn sẵn có của mình.
Tuy nhiên, không phải vốn tự có càng lớn càng tốt bởi vốn này quá lớn sẽ làm cho tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có càng nhỏ. Vốn này cũng không nên quá nhỏ vì sẽ làm mất đi tính chủ động và gây trở ngại cho hoạt động của ngân hàng
Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu của Ngân hàng thương mại rất đa dạng tuy theo tính chất sở hữu của Ngân hàng thương mại đó.
1.1.1.1 Vốn điều lệ
Vốn điều lệ là vốn đã được cấp hoặc được đóng góp của các chủ sở hữu. Tuỳ theo tính chất của ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau.
Nếu là ngân hàng thương mại quốc doanh vốn điều lệ là vốn do ngân sách cấp dưới hình thức bằng tiền và trái phiếu chính phủ. Nếu là ngân hàng cổ phần vốn điều lệ là vốn do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên liên doanh góp, nếu là ngân hàng tư nhân thì vốn thuộc sở hữu tư nhân.
1.1.1.2 Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Thứ nhất: Nguồn bổ sung từ lợi nhuận giữ lại trong điều kiện thu nhập ròng dương, chủ ngân hàng thường có 2 xu hướng là chi trả cổ tức cho các cổ đông và tăng vốn bằng cách chuyển thu nhập đó thành vốn để đầu tư. Trong trường hợp số lợi nhuận để lại của ngân hàng đủ đáp ứng các nhu cầu thì đây chính là hình thức vốn cổ phần tốt nhất mà ngân hàng nên sử dụng. Nhưng để sử dụng phương thức này thì ngân hàng phải đảm bảo có thể đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn của mình mà không làm tổn hại đến các cổ đông hoặc giá cổ phiếu. Lợi nhuận để lại không phải là một nguồn vốn cho không (chi phí của lợi nhuận để lại sẽ bao gồm cả giá trị cao hơn của số cổ tức được trả bằng tiền mặt hôm nay so với mức cổ tức sẽ nhận được trong những năm sắp tới và giá cổ phiếu có thể thấp hơn do mức chi trả cổ tức bằng tiền mặt giảm đi). Nhưng dù sao thì đây vẫn là nguồn vốn có chi phí thấp hơn so với việc phát hành cổ phiếu phổ thông mới, đồng thời phải chịu sự kiểm soát trực tiếp của người quản lý.
Thứ hai: Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, vốn góp thêm, cấp thêm…Để tăng thêm vốn chủ sở hữu các ngân hàng có thể phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu hoặc phát hành cổ phiếu bổ sung đối với các ngân hàng đã phát hành cổ phiếu ra công chúng. Ngoài ra, nếu là ngân hàng quốc doanh có thể gia tăng vốn chủ bằng cách xin nhà nước cấp thêm. Đây là hình thức tăng vốn để mở rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị hoặc đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn chủ của Ngân hàng thương mại. Đặc điểm của hình thức tăng nguồn vốn này là không thường xuyên, song lại giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
1.1.1.3 Các quỹ
Ngân hàng có một số loại quỹ, trong đó mỗi quỹ đều có mục đích riêng.
Trước tiên là: Quỹ dự phòng tổn thất, quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp tổn thất xảy ra. Theo quy định của Việt Nam, nguồn bù đắp tổn thất tín dụng bao gồm dự phòng để xử lý rủi ro và quỹ dự phòng tài chính.
Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Bao gồm 2 khoản chính là các khoản trích từ lợi nhuận hàng năm và phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu.
Tuỳ theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,…Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên một số quỹ không thể sử dụng lâu dài.
1.1.2 Nguồn vốn huy động
Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn quan trọng của Ngân hàng thương mại. Khi các ngân hàng hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ các khách hàng. Bằng cách đó, ngân hàng huy động tiền từ các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau:
1.1.2.1 Vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Đây là một hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm ). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu an toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn như các kỳ hạn khác nhau, mở cho mỗi người nhiều chuyên mục tiết kiệm ( hoặc sổ tiết kiệm ) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm không thể dùng để mua hàng nhưng có thể dùng để thế chấp vay vốn ngân hàng .
1.1.2.2 Vốn huy động từ tiền gửi thanh toán
Đây là tiền của doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào ngân hàng nhằm mục đích nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi tiêu của khách hàng sẽ được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền mặt của doanh nghiệp và cá nhân sẽ được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của các khoản tiền gửi thanh toán thấp hơn các hình thức gửi tiền khác, nhưng thay vào đó, chủ tài khoản sẽ được sử dụng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở các tài khoản tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tài khoản có thể phát hành séc cho khách hàng với thủ tục rất đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ được thanh toán trong phạm vi số dư trên tài khoản. Ngân hàng có thể kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay ( thấu chi – vượt mức số dư có của tài khoản tiền gửi ). Một ngân hàng có thể sử dụng nhiều hình thức tài khoản thanh toán nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
1.1.2.3 Vốn huy động từ tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy thuận tiện cho thanh toán nhưng lãi suất lại thấp. Do đó, để đáp ứng nhu cầu tăng thu của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, ngân hàng đã đưa ra hình thức gửi tiền có kỳ hạn, theo đó người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán giống như tiền gửi thanh toán, nếu cần chi tiêu khách hàng phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tiền gửi có kỳ hạn mặc dù không thuận tiện bằng tiền gửi thanh toán nhưng có ưu điểm là có lãi suất cao hơn.
1.1.2.4 Vốn huy động tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, các ngân hàng thương mại có thể gửi tiền ở các ngân hàng khác nhưng quy mô của nguồn này thường không lớn, nó phụ thuộc vào tình hình cân đối và khả năng thanh khoản của Ngân hàng nhận vốn .
1.1.3 Nguồn vốn vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại nhưng Ngân hàng thương mại có thể phải đi vay nếu thấy cần thiết. Tại nhiều quốc gia, Ngân hàng Trung ương thường quy định tỉ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn chủ sở hữu. Do vậy nhiều ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
1.1.3.1 Vay Ngân hàng Trung ương
Đây là khoản vay nhằm mục đích giải quyết các nhu cầu chi trả cấp bách của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán ) ngân hàng thương mại thường vay Ngân hàng Trung ương. Hình thức cho vay chủ yếu là Ngân hàng Trung ương tái chiết khấu các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu ( tái chiết khấu ) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng thương mại đem các thương phiếu này lên Ngân hàng Trung ương tái chiết khấu. Nghiệp vụ này làm giảm thương phiếu của ngân hàng thương mại và dự trữ của Ngân hàng Trung ương tăng lên. Ngân hàng Trung ương điều hành quá trình này một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Trung ương chỉ tái chiết khấu đối với những thương phiếu có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao ) và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Trung ương trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, Ngân hàng Trung ương cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
1.1.3.2 Vay các tổ chức tín dụng khác
Các ngân hàng thương mại có thể vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng không có dự trữ vượt mức do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng Trung ương. Quá trình vay mượn rất đơn giản: Ngân hàng đi vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng đại lí ( hoặc Ngân hàng Trung ương ). Khoản vay có thể không cần bảo đảm hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.
1.1.3.3 Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu ) trên thị trường vốn. Nhiều ngân hàng thiếu nguồn tiền trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao hơn sẽ vay được nhiều hơn, còn các ngân hàng nhỏ khó vay trực tiếp bằng cách này, họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lí hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ này tương đối phức tạp: ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất, bảo quản hộ…cũng được quan tâm.
1.1.4 Nguồn vốn khác
Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác.
1.1.4.1 Tiền uỷ thác
Ngân hàng thực hiện các dịch vụ uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng. Cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đa phương rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả đã hình thành nguồn uỷ thác làm tăng nguồn vốn của ngân hàng.
1.1.4.2 Tiền trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành các nguồn trong thanh toán như: séc trong quá trình chi trả, tiền kí quĩ để mở L/C…những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong hợp đồng tài trợ có kết dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay…
1.2. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Sự cần thiết của huy động vốn đối với Ngân hàng thương mại
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của các ngân hàng thương mại hay còn gọi là nghiệp vụ tạo vốn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú nhằm thu hút vốn từ các tổ chức và cá nhân trong trong nền kinh tế để phục vụ mục đích kinh doanh của mình.
1.2.1.1 Vốn là cơ sở để các ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có vốn. Ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, các ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác.Vậy để có hoạt động cho vay thì phải có thứ để mà cho vay. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Đối với những ngân hàng lớn dồi dào về nguồn vốn trung và dài hạn thì nó sẽ tập trung cho vay và đầu tư vào những dự án lớn có khả năng sinh lời cao trong khi đó các ngân hàng có nguồn vốn nhỏ thì ngược lại. Do vậy, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Nói cách khác, không có vốn thì ngân hàng không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh của mình.
1.2.1.2 Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng. Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với các ngân hàng ít vốn. Có được nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín dụng linh hoạt, có điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng.Theo luật các tổ chức tín dụng thì tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng tối đa không