Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt
động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không
thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước, cũng
như các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có
vốn. Đối với các NHTM với tư cách là một doanh nghiệp, một chế tài trung
gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn lại cómột vai trò hết sức quan
trọng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn thu lãi. Nhưng để cung cấp đủ
vốn đáp ứng nhu cầu thị trường, ngân hàng sẽ phải huy động vốn từ b ên
ngoài. Vì vậy, các NHTM rất chú trọng đến vấn đề huy động vốn đáp ứng
đầy đủ nhu cầu kinh doanh của mình. Có thể nói hoạt động huy động các
nguồn khác nhau trong xã hội là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM.
Tại Việt Nam việc huy động vốn (khai thác lượng tiền tạm thời nhàn
rỗi trong công chúng, hộ gia đ ình, c ủa các TCKT-XH hay các TCTD
khác) c ủa NHTM còn nhiều bất hợp lý. Điều n ày dẫn tới chi phí vốn cao,
quy mô không ổn định, việc tài trợ cho các danh mục tài sản không còn
phù hợp với quy mô, kết cấu từ đó l àm hạn chế khả năng sinh lời, buộc
ngân hàng phải đối mặt với các loại rủi ro.v.v. Do đó, việc tăng cường
huy động vốn từ bên ngoài với chi phí hợp lý và sự ổn định cao là yêu
c ầu ngày càng trở nên c ấp thiết và quan trọng.
103 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1679 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
1
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
KHOA
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Đề tài: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Quân đội
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
2
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt
động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không
thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước, cũng
như các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có
vốn. Đối với các NHTM với tư cách là một doanh nghiệp, một chế tài trung
gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn lại có một vai trò hết sức quan
trọng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn thu lãi. Nhưng để cung cấp đủ
vốn đáp ứng nhu cầu thị trường, ngân hàng sẽ phải huy động vốn từ bên
ngoài. Vì vậy, các NHTM rất chú trọng đến vấn đề huy động vốn đáp ứng
đầy đủ nhu cầu kinh doanh của mình. Có thể nói hoạt động huy động các
nguồn khác nhau trong xã hội là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM.
Tại Việt Nam việc huy động vốn (khai thác lượng tiền tạm thời nhàn
rỗi trong công chúng, hộ gia đình, của các TCKT-XH hay các TCTD
khác) của NHTM còn nhiều bất hợp lý. Điều này dẫn tới chi phí vốn cao,
quy mô không ổn định, việc tài trợ cho các danh mục tài sản không còn
phù hợp với quy mô, kết cấu từ đó làm hạn chế khả năng sinh lời, buộc
ngân hàng phải đối mặt với các loại rủi ro.v.v. Do đó, việc tăng cường
huy động vốn từ bên ngoài với chi phí hợp lý và sự ổn định cao là yêu
cầu ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng.
Để tăng cường huy động vốn ta cần nghiên cứu các hình thức huy
động, các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn như quy mô,
cơ cấu nguồn huy động đủ lớn để tài trợ cho các danh mục tài sản và
không ngừng tăng trưởng ổn định; nguồn vốn có chi phí hợp lý; huy động
vốn phù hợp với sử dụng vốn về mặt kỳ hạn; quản lý tốt các loại rủi ro
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
3
liên quan đến hoạt động huy động vốn. Cũng như phân tích các nhân tố
ảnh hưởng tới công tác huy động vốn.
NHTM CP Quân đội là một ngân hàng non trẻ. Mười năm hoạt động
không phải là một khoảng thời gian dài, nhưng với tất cả những gì NHTM CP
Quân đội đã trải qua và đạt được, ngân hàng có quyền tự hào và tin tưởng vào
sự phát triển của mình trong tương lai. Trong định hướng phát triển, tăng cường
huy động vốn vẫn là ưu tiên hàng đầu. Đây là một hoạt động vô cùng cần thiết
góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế, và để
đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu hoạt động kinh doanh cho Ngân hàng.
Điều này có thể thấy rõ trong những năm gần đây, nguồn vốn với chi
phí rẻ từ Bộ Quốc Phòng và các đối tượng trong ngành như các doanh nghiệp
quốc phòng v.v.. gửi tại NHTM CP Quân đội ngày càng eo hẹp, không đều
qua các năm. Thêm vào đó là sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt không
chỉ riêng hệ thống NHTM mà còn từ sự tham gia ngày càng nhiều của các tổ
chức tài chính phi ngân hàng. Từ đó đòi hỏi NHTM CP Quân đội phải có
những giải pháp huy động vốn đúng đắn thích hợp mới đáp ứng được nhu
cầu vốn cho nền kinh tế. Chính vì vậy, đây cũng là đề tài chuyên đề tốt
nghiệp đã được lựa chọn: “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Quân đội”.
2. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu của chuyên đề
Xuất phát từ lý luận về huy động vốn của NHTM, chuyên đề sẽ phân tích,
đánh giá thực trạng nguồn vốn, hoạt động huy động vốn từ bên ngoài của NHTM
CP Quân đội và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn để góp
phần nâng cao kết quả kinh doanh của NHTM CP Quân đội.
3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của chuyên đề
Đề tài nghiên cứu tập trung các vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn từ
bên ngoài của NHTM. Phân tích, đi sâu nghiên cứu hoạt động huy động vốn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
4
của NHTM CP Quân đội trên các khía cạnh: các loại hình, quy mô, cơ cấu, chi
phí vốn và sự phù hợp với sử dụng vốn trên cơ sở các số liệu của ngân hàng từ
năm 2000-2004.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp khoa học: Phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp chỉ số, phân tích,
so sánh và tổng hợp, khái quát hoá và trừu tượng hoá. Sử dụng số liêu
thống kê để luận chứng.
5. Bố cục của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn từ bên ngoài trong
NHTM
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn từ bên ngoài của NHTM
CP Quân đội thời gian qua.
Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn từ bên ngoài tại
NHTMCP Quân đội.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
5
Chương 1: lý luận chung về hoạt động
huy động vốn trong NHTM
1.1. Tổng quan về NHTM
1.1.1. Khái niệm NHTM
Hiện nay, tuy khái niệm về NHTM ở mỗi nước có đặc điểm khác nhau
nhưng đều thống nhất coi NHTM là doanh nghiệp chuyên kinh doanh tiền
tệ và cung ứng những dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, là một trong những
tổ chức tài chính trung gian, các tổ chức tài chính trung gian này gọi chung
là các định chế tài chính có chức năng giống nhau là dẫn vốn từ nơi thừa
vốn sang nơi thiếu vốn.
ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng theo Điều 20 có ghi “ NHTM là
loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan” Trong đó “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
gửi, sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngay từ xa xưa, với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá đã làm xuất
hiện nhu cầu trao đổi hàng với nhau. Để việc trao đổi này được tiến hành dễ
dàng và thuận lợi, người ta đã dùng tiền làm trung gian trao đổi hàng hoá. Hệ
quả là đã làm tăng tốc độ trao đổi hàng hoá, kích thích sản xuất, đưa xã hội
loài người ngày càng phát triển. Nếu không có tiền đóng vai trò trung gian thì
quá trình trao đổi sẽ vô cùng phức tạp.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
6
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của tiền tệ ngày càng được
phát huy. Các NHTM với chức năng kinh doanh tiền tệ đã biết tận dụng
ưu thế, sức mạnh của đồng tiền để sinh lời. Họ thực hiện kinh doanh tiền
tệ bằng cách trao đổi ngoại tệ: Mua, bán một loại tiền này lấy một loại
tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
Do kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, các NHTM thường có két tốt
để cất giữ đảm bảo an toàn, vì vậy họ thực hiện cất trữ hộ tiền cho mọi
người để làm tăng thu nhập từ việc thu phí, tăng khả năng đa dạng các
loại tiền, tăng quy mô tài sản kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ nhiều
người khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ.
Ngoài ra, họ còn cho vay lấy lãi. Ban đầu, các ngân hàng đã dùng vốn của
chủ để tài trợ cho các hoạt động nhưng điều đó không kéo dài. Từ hoạt động
thực tiễn, các ngân hàng nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và có
người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút tiền cùng một lúc, đã tạo
số dư thường xuyên ở két. Do tính chất vô danh của đồng tiền, ngân hàng có
thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động
cho vay tạo nên lợi nhuận lớn cho ngân hàng, do vậy các ngân hàng đều tìm
cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền.
Như vậy, từ việc giữ hộ tiền để thu phí, ngân hàng chuyển sang huy động vốn
và trả lãi cho việc huy động số tiền nhàn rỗi, tiềm tàng trong xã hội. Bằng cách
cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng
nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng các hoạt động của ngân hàng.
Bước chuyển mình lớn nhất của hệ thống ngân hàng bắt đầu từ thế kỷ 20
khi mà các ngân hàng áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào hoạt động
của mình. Hàng loạt sản phẩm mới ra đời đáp ứng mọi nhu cầu của khách
hàng như bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, uỷ thác tư vấn, môi giới
chứng khoán.v.v. Ngày nay, ngân hàng đã trở thành một bộ phận không thể
thiếu của mỗi nền kinh tế. Nó được coi là mạch máu của một quốc gia.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
7
1.1.3. Nguồn vốn của NHTM
NHTM cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào để tồn tại và phát
triển phải có vốn. Vốn tác động đến kết cấu tài sản và khả năng sinh lời,
hạn chế các loại rủi ro trong hoạt động NHTM. Vốn của NHTM gồm 2
loại cơ bản nếu phân chia theo hình thức sở hữu là vốn chủ sở hữu và vốn
nợ (vốn huy động từ bên ngoài).
1.1.3.1. Vốn của chủ sở hữu
a, Khái niệm
Vốn chủ sở hữu là điều kiện đầu tiên để ngân hàng được luật pháp cho
phép hoạt động và đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình
thành nên trang thiết bị, nhà cửa. Nguồn hình thành nên vốn chủ sở hữu gồm
nguồn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động,
nguồn vay nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ phần và các quỹ.
b, Các thành phần vốn của chủ sở hữu và đặc điểm của chúng
- Vốn ban đầu
Vốn ban đầu hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động với tính chất
sở hữu và nguồn hình thành khác nhau. Nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là
vốn do cá nhân tự bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì do
ngân sách Nhà nước cấp; nếu là ngân hàng cổ phần thì do cổ đông thông
qua mua các cổ phần (hoặc cổ phiếu); nếu là ngân hàng liên doanh thì do
các bên tham gia liên doanh góp.
Trường hợp của ngân hàng cổ phần có thể được hình thành từ cổ
phần thường và cổ phần ưu đãi.
Vốn ban đầu thường phải tuân thủ các qui định của NHNN. Các qui
định thường nêu rõ số vốn tối thiểu - vốn pháp định mà chủ ngân hàng
cần phải có để bắt đầu kinh doanh ngân hàng. NHNN, luật NHNN có qui
định cụ thể cho từng loại ngân hàng trong từng điều kiện cụ thể.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
8
Vốn thường không phải hoàn trả. Các cổ đông có thể bán cổ phiếu
trên thị trường vốn (thị trường chứng khoán). Các cổ phần thường được
hưởng cổ tức cao hay thấp tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính
sách phân chia lợi nhuận của ngân hàng.
- Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động
Bao gồm cổ phần phát hành thêm ( hoặc ngân sách cấp thêm ) trong quá
trình hoạt động, lợi nhuận tích luỹ, thặng dư vốn, các quĩ ...
Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thêm: Ngân hàng có thể
phát hành thêm cổ phần (thường là cổ phần ưu đãi) hoặc xin cấp thêm
vốn từ ngân sách để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để chống đỡ rủi ro
trong trường hợp cần phải duy trì thị giá của cổ phiếu...
Huy động vốn cổ phần từ cán bộ công nhân viên ngân hàng mình:
Hình thức huy động này huy động vốn từ chính những cán bộ công nhân
viên trong ngân hàng mình, làm cho họ trở thành những cổ đông của
ngân hàng và gắn chặt quyền lợi với quyền lợi chung của ngân hàng. Đây
là hình thức mang tính lâu dài và ổn định cần được chú trọng.
Huy động từ lợi nhuận bổ sung VCC, các quỹ dự phòng tài chính, quỹ
trợ cấp, quỹ khen thưởng là các loại quỹ khác: Nếu như lợi nhuận để lại
của ngân hàng đủ để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của mình thì thông
thường đây chính là nguồn bổ sung quan trọng nhất. Nguồn bổ sung này có
thể lấy trực tiếp từ các quỹ như: Quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp.v.v.
Mặc dù vậy khó nhất là phải xác định được khi nào thì được phép trích lập
từ các quỹ trên để làm nguồn vốn bổ sung, tỉ lệ trích lập ra sao cho hợp lý.
Vốn bổ sung bằng phát hành giấy nợ có khả năng chuyển đổi thành
cổ phiếu: Một số ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu
dài hạn cũng thuộc VCC mặc dù chúng mang nhiều tính chất của một
khoản nợ. Tuy nhiên, phần này thường bị giới hạn và kiểm soát chặt chẽ.
c, Vai trò
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
9
Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ so với vốn nợ, do đặc trưng
trong kinh doanh ngân hàng là huy động để cho vay. Theo quy định của
NHNN Việt Nam tỷ lệ Vốn chủ sở hữu/tiền gửi tối thiểu là 1/20. Tuy chiếm tỷ
trọng nhỏ, song Vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng.
Vốn chủ sở hữu có vai trò bảo vệ người gửi tiền: Kinh doanh ngân hàng
thường xuyên đối đầu với rủi ro. Các khoản tổn thất của ngân hàng sẽ được bù
đắp bằng vốn chủ sở hữu. Như vậy, nếu quy mô vốn chủ sở hữu lớn, người
gửi tiền và người cho vay sẽ cảm thấy an tâm hơn về ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu có vai trò tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động
cho ngân hàng: Như đã phân tích ở trên, để hoạt động điều kiện đầu tiên là ngân
hàng phải có được số vốn tối thiểu ban đầu. Số vốn này được sử dụng để mua
sắm trang thiết bị, nhập công nghệ, xây thêm chi nhánh, mở văn phòng đại diện...
Ngoài ra, Vốn chủ sở hữu có vai trò điều chỉnh các hoạt động của
ngân hàng: Rất nhiều quy định về hoạt động của ngân hàng có liên quan
chặt chẽ với Vốn chủ sở hữu như quy mô nguồn tiền gửi được tính theo
tỷ lệ với Vốn chủ sở hữu... Vì vậy quy mô và cấu trúc hoạt động của
ngân hàng được điều chỉnh theo vốn chủ sở hữu.
1.1.3.2. Vốn nợ
a, Khái niệm
Khác với các loại hình doanh nghiệp khác, vốn nợ của NHTM chiếm
tỷ trọng lớn hơn nhiều so với vốn của chủ và đây là loại vốn cơ bản để tài
trợ cho các danh mục tài sản của NHTM. Vốn nợ được huy động từ các
nguồn tiền gửi, vay và một số loại khác.
b, Các thành phần vốn nợ và đặc điểm của chúng
- Tiền gửi
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải thanh toán khi khách hàng yêu
cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
10
Quy mô tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn
chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của ngân
hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi
thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi.
Tiền gửi nhất là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động
về lãi suất, tỷ giá, thu nhập và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là yếu tố
kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Thu nhập gia tăng là
điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn nguồn tiền gửi.
Các yếu tố khác như địa điểm ngân hàng, các loại hình huy động... đều
ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc của nguồn tiền.
- Tiền vay
Tỷ trọng nguồn này thấp hơn so với nguồn tiền gửi. Khác với nhận tiền
gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên chỉ vay lúc cần thiết
và hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử
dụng. Các khoản vay thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán
tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao. Hơn nữa vay NHNN
phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nguồn khác
Phần lớn các nguồn này ngân hàng không phải trả lãi. Tuy nhiên, chi
phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể. Nhìn chung, các nguồn khác
trong ngân hàng thường không lớn.
c, Vai trò
Có thể nói nếu vốn chủ sở hữu có vai trò quan trọng để ngân hàng được
đi vào hoạt động và là đệm đỡ không thể thiếu của ngân hàng thì vốn nợ lại là
yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
11
Trên cơ sở vốn nợ tạo lập, ngân hàng sử dụng để cho vay, đầu tư vào
chứng khoán, mua sắm tài sản cố định, tiền gửi tại ngân hàng khác và
phải được thực hiện dự trữ theo quy định để đảm bảo khả năng thanh
toán. Qui mô, cơ cấu của các nhóm tài sản này được xác định một phần
căn cứ vào qui mô, cơ cấu vốn nợ.
Thêm vào đó, tính ổn định về chi phí và thời hạn của vốn nợ quy định số
tiền phải dự trữ là cơ sở cân nhắc đầu tư bao nhiêu vào chứng khoán ngắn hạn
nên cho vay với thời hạn nào, lãi suất bao nhiêu để phù hợp với vốn.
Như vậy, vốn nợ có vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định danh
mục tài sản đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của NHTM.
Ngoài ra, qui mô và kết cấu của vốn nợ cũng ảnh hưởng rất lớn đến
sự an nguy hoạt động của NHTM. Sự không phù hợp giữa việc huy động
vốn từ bên ngoài và việc sử dụng vốn về thời hạn, độ nhạy cảm với lãi
suất, qui mô các loại tiền có thể dẫn tới các rủi ro về thanh toán, lãi suất,
tỷ giá mà ngân hàng phải gánh chịu.
Tóm lại, qua những vấn đề được đề cập ở trên thì rõ ràng vốn có vai trò
quan trọng quyết định sự sống còn của một ngân hàng đặc biệt là vốn nợ. Để
có được vốn nợ thì hoạt động huy động vốn từ bên ngoài lại càng có vai trò
hết sức quan trọng. Sau đây là những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động
vốn từ bên ngoài trong NHTM.
1.2. Những vấn đề cơ bản về huy động vốn từ bên ngoài của NHTM
1.2.1. Các hình thức huy động vốn từ bên ngoài
Tuỳ theo các tiêu chí, mục đích huy động khác nhau có các hình thức sau:
Nếu phân theo loại vốn huy động gồm: huy động tiền gửi và tiền vay.
Nếu huy động vốn phân theo loại tiền: huy động vốn nội tệ và ngoại tệ.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
12
Nếu phân theo phạm vi huy động: huy động vốn trong nước và nước
ngoài.
Nếu theo kỳ hạn huy động: huy động vốn ngắn, trung và dài hạn.
Nếu phân theo đối tượng huy động vốn: huy động vốn từ các cá nhân, hộ
gia đình và tổ chức kinh tế.
Ngoài ra, các NHTM còn huy động từ các nguồn bên ngoài khác.
Cụ thể:
1.2.1.1. Huy động vốn tiền gửi, vay
a, Huy động vốn tiền gửi
“Ngân hàng được nhận tiền gửi của các TCKT, cá nhân và các TCTD
khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền tửi có kỳ hạn và tiền gửi
khác” - Điều 45 Luật các TCTD số 03/1997/QH10.
Tiền gửi phân loại theo kỳ hạn bao gồm :
- Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi giao dịch):
Khi tiền mặt (hoặc Séc từ một ngân hàng khác) được gửi vào ngân hàng
A, nếu muốn sẽ có thể rút tiền ra hoặc chi tiêu vào bất cứ lúc nào, ngân hàng
A sẽ sắp xếp tiền gửi đó vào nhóm tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là các khoản
gửi với thời gian không xác định. Người vừa mới gửi tiền vào buổi sáng, nếu
cần có thể rút ra ngay vào buổi chiều. Nếu không có nhu cầu sử dụng, có thể
mười bữa nửa tháng hoặc một năm sau mới rút ra. Tính bất định về thời gian
gửi, cùng với đặc điểm có thể rút ra bất cứ lúc nào cần đã làm cho loại tiền gửi
này còn có tên gọi tiếng Anh là Demand deposit.
Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi và
bao gồm 2 loại sau:
+ Tiền gửi thanh toán: Đó là khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết
được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá,
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp NguyÔn ViÖt Anh
13
dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách
thường xuyên, an toàn và thuận tiện.
Đối với tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba
thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản.
Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có.Với tài
khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín
dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Đứng trên góc độ ngân hàng,
tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động
trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào.
+ Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý : Là các khoản tiền được ký gửi với
mục đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần
thanh toán khách hàng có thể đến ngân hàng để chi tiêu. Ngân hàng phải thoả
mãn yêu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và chỉ được phép sử
dụng tồn khoản chi khi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.
- Tiền gửi có kỳ hạn:
Khi gửi tiền vào NHTM theo tài khoản gửi có kỳ hạn, điều ngân
hàng cần biết trước tiên là gửi với thời gian bao lâu. Thông thường định
kỳ có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc hơn nữa. Tại Việt
Nam, các khoản tiền gửi có kỳ hạn thường nằm trong khoảng 6 tháng đến
24 tháng. Nguyên nhân vì các doanh nghiệp nước ta hầu hết thuộc loại
doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn không lớn và tốc độ quay vòng vốn
khá nhanh. Do vậy, họ khó có thể gửi với kỳ hạn dài. Hơn nữa nếu gửi
tiền có kỳ hạn càng dài mặc dù được hưởng lãi suất cao hơn nhưng khi có
nhu cầu rút tiền đột xuất thì khoản lãi suất mà ngân hàng trả sẽ rất thấp,
do phải