Trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, du lịch được coi là một nghành “công nghiệp không khói”, “ con gà đẻ trứng vàng”. Nó là một trong những nghành kinh tế hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, thu hút được nhiều nhà đầu tư vì những lợi ích to lớn về kinh tế – xã hội mà nó đem lại.
Thế giới trong sự chuyển biến đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế, cùng với chính sách cửa của nước ta, nghành du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển. Nhìn lại chặng đường đã qua,những kết quả mà nghành du lịch đã đạt được trong những năm qua là rất đáng khích lệ. Từ năm 1990 đến nay tốc độ phát triển liên tục đạt 30 – 40%/năm. Cuộc chiến tranh Mĩ –IRắc, đại dịch bệnh Sars . đã làm cho hoạt động du lịch gặp nhiều khó khăn và giảm sút. Nhưng rồi vượt qua những khó khăn đó hầu hết nền kinh tế đã khôi phục và đạt được tốc độ tăng trưởng khả quan, nhất là hoạt động du lịch.
Ngày nay, các công ty đang phải chạy đua với nhau trên một tuyến đường với những biển báo và luật lệ luôn luôn thay đổi, không có tuyến đích cũng như không có chiến thắng vĩnh cửu.
Con đường nào để giúp các doanh nghiệp tồn tại được và vươn lên trong cơ chế thị trường nghiệt ngã hiện nay. Cách duy nhất là doanh nghiệp phải tự tìm cách thích ứng và điều hành doanh nghiệp theo hướng thị trường thực sự.
Giải quyết vấn đề này đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến việc đưa ra thị trường sản phẩm gì? Giá bao nhiêu mà còn đưa ra thị trường như thế nào?
Các kênh Marketing được tạo ra là để đáp ứng vấn đề này và để giữ vững lợi thế cạnh tranh . Một chiến lược phân phối thành công có thể cho phép một công ty định vị nó theo cách mà đối thủ cạnh tranh khó có thể bắt trước được, đồng thời là điều kiện để phát huy các biến số chiến lược khác của Marketing, mang lại hiệu quả mục tiêu và thành công lớn cho doanh nghiệp.
68 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3543 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện chính sách sản phẩm tại công ty du lịch đường sắt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY DU Lich ĐƯỜNG SẮT
LỜI NÓI ĐẦU
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, du lịch được coi là một nghành “công nghiệp không khói”, “ con gà đẻ trứng vàng”. Nó là một trong những nghành kinh tế hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, thu hút được nhiều nhà đầu tư vì những lợi ích to lớn về kinh tế – xã hội mà nó đem lại.
Thế giới trong sự chuyển biến đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế, cùng với chính sách cửa của nước ta, nghành du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển. Nhìn lại chặng đường đã qua,những kết quả mà nghành du lịch đã đạt được trong những năm qua là rất đáng khích lệ. Từ năm 1990 đến nay tốc độ phát triển liên tục đạt 30 – 40%/năm. Cuộc chiến tranh Mĩ –IRắc, đại dịch bệnh Sars ... đã làm cho hoạt động du lịch gặp nhiều khó khăn và giảm sút. Nhưng rồi vượt qua những khó khăn đó hầu hết nền kinh tế đã khôi phục và đạt được tốc độ tăng trưởng khả quan, nhất là hoạt động du lịch.
Ngày nay, các công ty đang phải chạy đua với nhau trên một tuyến đường với những biển báo và luật lệ luôn luôn thay đổi, không có tuyến đích cũng như không có chiến thắng vĩnh cửu.
Con đường nào để giúp các doanh nghiệp tồn tại được và vươn lên trong cơ chế thị trường nghiệt ngã hiện nay. Cách duy nhất là doanh nghiệp phải tự tìm cách thích ứng và điều hành doanh nghiệp theo hướng thị trường thực sự.
Giải quyết vấn đề này đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến việc đưa ra thị trường sản phẩm gì? Giá bao nhiêu mà còn đưa ra thị trường như thế nào?
Các kênh Marketing được tạo ra là để đáp ứng vấn đề này và để giữ vững lợi thế cạnh tranh . Một chiến lược phân phối thành công có thể cho phép một công ty định vị nó theo cách mà đối thủ cạnh tranh khó có thể bắt trước được, đồng thời là điều kiện để phát huy các biến số chiến lược khác của Marketing, mang lại hiệu quả mục tiêu và thành công lớn cho doanh nghiệp.
Qua quá trình thực tập tại Công ty du lich Đường Sắt em đã chọn đề tài “ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY DU LỊCH ĐƯỜNG SẮT ” cho luận văn của mình. Đề tài nghiên cứu nội dung của chính sách sản phẩm và đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách sản phẩm,cụ thể là ở Công ty Cổ phần Vận Tải và Thương Mại Đường Sắt.
Với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn..............., các thầy cô trong khoa Khách sạn - Du lịch trường Đại học Thương Mại. Cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, anh chị trong Công ty Cổ phần Vận Tải và Thương Mại Đường Sắt, em đã xây dựng được đề tài của mình. Kết hợp giữa lý thuyết và thực tế, nội dung cơ bản của bài luận văn được trình bày qua ba chương:
Chương I : Cơ sở lý luận về chính sách sản phẩm.
Chương II : Thực trạng về chính sách sản phẩm tại Công ty Cổ phần Vận Tải và Thương Mại Đường Sắt.
Chương III : Một số giải pháp hoàn thiện chính sách sản phẩm tại Công ty Cổ phần Vận Tải và Thương Mại Đường Sắt.
Với sự hạn chế về chình độ và kinh nghiệm bản thân nên đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến nhận xét của các thầy cô giáo, các bạn độc giả.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo hướng dẫn, các cô chú, anh chị trong công ty đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt bài luận văn của mình.
Xin trân thành cảm ơn !
Hà Nội,ngày tháng 09 năm 2004
Chương I
Cơ sở lý luận về chính sách sản phẩm trong kinh doanh du lịch
1. Du lịch và kinh doanh du lịch
Thuật ngữ Du lịch ?
Thuật ngữ du lịch trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là “đi một vòng”. Thuật ngữ này được La Tinh hoá thành Tornus và sau đó thành Tourisme (Tiếng Pháp), Tourism (Tiếng Anh), Mypuzu (Tiếng Nga)… Theo Robert Lanquar, từ Tourist lần đầu tiên xuất hiện trong tiếng Anh vào khoảng năm 1800.
Trong tiếng Viết thuật ngữ Tourism được dịch thông qua tiếng Hán :
“Du” có nghĩa là đi chơi.
“Lịch” có nghĩa là từng trải.
Tuy nhiên người Trung Quốc gọi Tourism là Du lãm với nghĩa “Đi chơi để nâng cao nhận thức”.
Khái niệm du lịch
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, không chỉ ở nước ta, nhận thức về nội dung du lịch vẫn chưa thống nhất. Trước thực tế phát triển của nghành du lịch về mặt kinh tế cũng như trong lĩnh vực đào tạo, việc nghiên cứu, thảo luận để đi đến thống nhất một số khái niện cơ bản, trong đó có khái niệm du lịch và du khách là một đòi hỏi cần thiết.
Do hoàn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách thể hiện về du lịch khác nhau. Đúng như một chuyên gia về du lịch đã nhận định : “đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.
Trong số những học giả đưa ra định nghĩa ngắn gọn nhất (tuy không phải là đơn giản nhất) phải kể đến Ausher và Nguyễn Khắc Viện. Theo Ausher thì Du lịch là nghệ thuật đi chơi của cá nhân, còn Nguyễn Khắc Viện lại quan niệm rằng Du lịch là sự mở rộng không gian văn hoá của con người. Trong các từ điển tiếng Việt, du lịch được giải thích là đi chơi cho biết xứ người.
Năm 1963, với mục đích quốc tế hoá, tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về du lịch họp ở Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa như sau về du lịch : “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”. Định nghĩa này là cơ sở cho định nghĩa du khách đã được Liên minh quốc tế các tổ chức du lịch chính thức,tiền thân của Tổ chức du lịch thế giới thông qua.
Chúng ta biết rằng, trong thực tế cuộc sống, do sự phát triển của xã hội và nhận thức, các từ ngữ thường có khá nhiều nghĩa, nhiều khi trái ngược nhau. Như vậy,cố gắng giải thích đơn vị từ đa nghĩa bằng cách gộp các nội dung khác nhau vào một định nghĩa sẽ làm cho khái niệm trở nên khó hiểu và thông qua không rõ ràng. Dựa theo cách tiếp cận trên, nên tách thuật ngữ du lịch thành hai phần để định nghĩa nó.
Du lịch có thể được hiểu là :
* Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng.
* Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, năng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.
Việc phân định rõ ràng hai nội dung cơ bản của khái niệm có ý nghĩa góp phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Cho đến nay không ít người, thậm chí ngay cả các cán bộ nhân viên đang làm việc trong nghành du lịch chỉ cho rằng du lịch là một nghành kinh tế. Do đó mục tiêu được quan tâm hàng đầu là mang lại hiệu quả kinh tế. Điều đó cũng có thể đồng nghĩa với việc tận dụng triệt để mọi nguồn tài nguyên, mọi cơ hội kinh doanh. Trong khi đó, du lịch còn là một hiện tượng xã hội. Nó góp phần nâng cao dân trí, phục hồi sức khoẻ cộng đồng,giáo dục lòng yêu nước, tình đoàn kết.... Chính vì vậy, toàn xã hội phải có trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ, đầu tư cho du lịch phát triển như đối với giáo dục, thể thao hoặc một lĩnh vực văn hoá khác.
Sản phẩm du lịch?
Từ “Sản phẩm” là một danh từ chỉ nói lên chất lượng hay trạng thái của một sự vật cụ thể hay trừu tượng (các món ăn do đầu bếp nấu hay dịch vụ của một hướng dẫn viên cung cấp cho khách đi thăm một thắng cảnh ).
Nhưng sản phẩm du lịch là một tổng thể rất phức tạp gồm các thành phần không đồng nhất. Người ta có cùng quan niệm rằng sản phẩm này bao gồm những phần sau :
- Một di sản gồm các tài nguyên thiên nhiên, văn hoá, nghệ thuật, lịch sử hay công nghệ có khả năng thu hút khách du lịch và thúc đẩy chuyến đi của họ.
- Bên cạnh đó còn có các trang thiết bị mà nếu thiếu nó thì chuyến đi không thể thực hiện được : nơi ăn chốn ở, các trang bị về văn hoá,vui chơi và thể thao.
- Việc đi lại thuận tiện có liên quan đến phương tiện chuyên chở mà khách du lịch sẽ dùng để đi tới địa điểm đã chọn.
Đặc điểm sản phẩm du lịch?
Sản phẩm du lịch là sản phẩm không thể lưu kho cũng như không thể cất trữ được vì khi kết thúc quá trình sản xuất sản xuất cũng là lúc kết thúc quá trình tiêu thụ.
Tuy có kế hoạch hoá theo nhu cầu, thì dù muốn hay không nó cũng chỉ được sản xuất dần dần theo tiêu thụ. Sau hết là các tổ chức du lịch không thể đẩm đương được, hoặc không đẩm đương được hoàn toàn các chức năng phân phối. Họ phải giao lại cho số đông các trung gian thâu tóm tốt hơn một thị trường, dù thị trường này có nhỏ bé hoặc cá biệt đến đâu đi chăng nữa, và đạt được một hiệu suất cao nhất do có quan hệ mật thiết hơn với các khách hàng : các hãng hoặc hội du lịch, những người tiến hành hoặc tổ chức các chuyến đi, các công ty gĩư chỗ cho các dịch vụ, các đại diện bán hàng, các hãng tổng hợp đại diện cho các công ty hàng không, tầu biển, đường sắt hay đường bộ.... Mỗi trung gian có những cách làm việc đặc thù, những nhu cầu công tác khác nhau vì những mục đích thương mại riêng.
*Đặc điểm của kinh doanh du lịch
Công việc kinh doanh du lịch diễn ra quanh năm nhưng trong kinh doanh du lịch vẫn có tính thời vụ. Chính vì vậy mà các nhà kinh doanh luôn tìm cách để kéo dài thời vụ trong kinh doanh du lịch để tăng doanh thu cho mình.
Việc kinh doanh du lịch là hỗn hợp của nhiều loại hình kinh doanh khác nhau : Vận chuyển, các dịch vụ vui chơi giải trí,các dịch vụ tham quan thắng cảnh,...
Trong kinh doanh du lịch cần phải giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng và chính xác do đó người điều hành phải hiểu biết để đưa ra quyết định nhanh. Đồng thời vai trò của từng nhân viên trong công ty có ý nghĩa quan trọng và họ phải rất linh hoạt để xử lý các tình huống.
Kinh doanh du lịch phải đương đầu với sự cạnh tranh rất cao về chất lượng cũng như giá cả với các đối thủ của mình.
Những mục tiêu của sự phát triển sản phẩm
Mục tiêu chính mà người chịu trách nhiệm của một tổ chức theo đuổi là“ Đạt tới sự phối hợp tối ưu những khối lượng về yếu tố sản xuất ” mà anh ta có thể sử dụng những khối lượng sản phẩm và dịch vụ mà anh ta có thể tạo ra. Người ta có thể phân chia những mục tiêu marketing thành bốn dạng : Kinh tế,Tự tôn,Xã hội và Môi trường sinh thái.
Những mục tiêu kinh tế: Là những mục tiêu quan trọng nhất vì ở mọi mức độ marketing của một cơ sở, một mục tiêu được diễn tả chủ yếu bằng doanh số hoặc phần trăm về phát triển.
Những mục tiêu tự tôn : Trước tiên là uy tín và sự cải thiện hình ảnh của công ty. Người đứng đầu công ty (cơ sở) có thể đặt mục tiêu là phải giữ khách hàng bằng mọi giá, bằng việc đảm bảo cho mình số khách và số thu nhập thích hợp.
Những mục tiêu xã hội : Cũng như việc phát triển những sản phẩm phù hợp với các tầng lớp nhân dân có thu nhập thấp “Tạo điều kiện cho cho các gia đình đi nghỉ một cách lành mạnh và thoải mái theo yêu cầu và khả năng với những dịch vụ tập thể mang tính cụ thể và giáo dục ”
Những mục tiêu sinh thái : Bảo vệ môi trường đang là mục tiêu nội tại của chiến lược phát triển và quản lý.
Những mục tiêu này có thể là tổng quát, nhưng cũng cần rõ ràng và chi tiết,nó có thể là mục tiêu dài hạn hoạc ngắn hạn. Trong mọi trường hợp, chúng phải mang tính cân bằng, hoạt động và xác định.
2. Chính sách sản phẩm trong kinh doanh du lịch
2.1 Những vấn đề chung về chính sách sản phẩm
2.1.1 Khái niệm và vị trí của chính sách sản phẩm
*Khái niệm
Chính sách sản phẩm được hiểu là tổng thể những quy tắc chỉ huy việc tung sản phẩm vào thị trường để thoả mãn nhu cầu của thị trường trong thời kỳ kinh doanh của doanh nghiệp đảm bảo cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
*Vị trí và vai trò của chính sách sản phẩm
Chính sách sản phẩm là xương sống của chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh ngày càng gay gắt thì vai trò của chính sách sản phẩm ngày càng trở nên quan trọng. Không có chính sách sản phẩm thì chính sách giá cả, chính sách phân phối xúc tiến, quảng cáo cũng không có lý do để tồn tại. Nếu chính sách này sai lầm tức là đưa ra thị trường loại hàng hoá không có nhu cầu hoặc rất ít nhu cầu thì cho dù giá trị có thấp, quảng cáo hấp dẫn đến đâu cũng không có nghĩa gì hết đối với chính sách sản phẩm không những chỉ đảm bảo cho kinh nghiệm kinh doanh đúng hướng mà còn gắn bó chặt chẽ giữa các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp nhằm mục tiêu chiến lược tổng quát.
Mặt khác một doanh nghiệp tồn tại trên thị trường phải thông qua khối lượng sản phẩm tiêu thụ vì vậy quyết định sản phẩm là quyết định quan trọng nhất. Bởi vì sản phẩm không chỉ đảm bảo cho sản xuất kinh doanh đúng hướng mà còn giúp chúng ta thực hiện mục tiêu của chiến lược kinh doanh tổng quát như mục tiêu lợi nhuận, chất lượng,....
Để triển khai chiến lược kinh doanh đã hoạch định các doanh nghiệp phải tiến hành lập kế hoạch sản xuất và tiêu thụ. Trong tất cả các phương án kinh doanh trên, chính sách sản phẩm có vị trí đặc biệt quan trọng, nó quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung là chi phối các chính sách khác. Nó là hạt nhân trong hệ thống các phương án kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
2.1.2 Các căn cứ xây dựng chính sách sản phẩm
* Căn cứ vào chiến lược kinh doanh và phương án kinh doanh tổng hợp
Chiến lược kinh doanh xác định phương hướng hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian dài thậm trí trong xuốt quá trình tồn tại của doanh nghiệp. Chính sách sản phẩm tuy rất quan trọng nhưng cũng chỉ nhằm thực hiện mục tiêu trên mà chiến lược kinh doanh và phương án kinh doanh đã đề ra.
Chính sách sản phẩm phải tiếp tục trả lời câu hỏi : Số lượng bao nhiêu? Chất lượng như thế nào?
Trong chiến lược kinh doanh chung phải trả lời câu hỏi : Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào?
Như vậy chính sách sản phẩm chỉ là sự tiếp nối trong chiến lược kinh doanh, nó không tách rời riêng biệt mà nó chỉ khác nhau ở tính bao quát và tính cụ thể.
* Căn cứ vào nhu cầu thị trường
Chỉ khi thị trường có nhu cầu các doanh nghiệp mới tiến hành kinh doanh để cung cấp sản phẩm cho thị trường. Trong khi chiến lược kinh doanh chung là trả lời câu hỏi “sản xuất cho ai? ”, tuy nhiên xác định cụ thể chất lượng, số lượng lại phụ thuộc vào chính sách sản phẩm. Chiến lược kinh doanh không thể trả lời câu hỏi này vì nhhu cầu về sản phẩm dịch vụ nào đó thường thay đổi theo thời gian và thời gian trong khi chiến lược kinh doanh chỉ là hành động cho cả thời gian dài.
Doanh nghiệp dựa vào nhu cầu thị trường, nghiên cứu các nhu cầu chưa được thoả mãn và tiến hành sản xuất kinh doanh để cung cấp sản phẩm thoả mãn nhu cầu đó.
* Căn cứ vào khả năng của doang nghiệp
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp chịu nhiều ràng buộc, hạn chế nhất định do vậy doanh nghiệp phải thấy hết mặt mạnh mặt yếu mình khi lựa chọn quyết định chính sách sản phẩm. Khả năng của doanh nghiệp bao gồm cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Yếu tố chủ quan như uy tín của doanh nghiệp, phần thị rường doanh nghiệp kiểm soát được,... yếu tố khách quan như trình độ lao động, nguồn vốn, vị trí kinh doanh.
Một doanh nghiệp du lịch không thể cung ứng ra thị trường khối lượng sản phẩm vượt quá khả năng của mình. Không phải chỉ trong một thời gian ngắn mà các doanh nghiệp kinh doanh du lịch có thể tạo điều kiện cần thiết để năng cao khối lượng sản phẩm dịch vụ và doanh nghiệp phải có chính sách sao cho có hiệu quả kinh tế cao.
2.1.3 Phương pháp xây dựng chính sách sản phẩm
Khi doanh nghiệp xây dựng chính sách sản phẩm phải lựa chọn phương án tốt nhất và các nhà quản lý thường có 3 cách lựa chọn như sau :
* Phương án dựa vào kinh nghiệm
Bằng việc phân tích kỹ lưỡng những thành công, thất bại của chính bản thân doanh nghiệp trong quá khứ để rút ra kinh ngiệm trong việc lựa chọn phương án kinh doanh của mình.
` + Ưu điểm : Phương án này dễ làm vì những dữ liệu doanh nghiệp đã có sẵn
+ Nhược điểm : Những kinh nghiệm trong quá khứ không phải lúc nào cũng áp dụng được trong tương lai vì có sự khác nhau về mục tiêu.
* Phương án dựa vào thực nghệm :
Doanh nghiệp tiến hành làm thử một phương án trong một mục tiêu đã chọn sau đó rút kinh nghiệm dần.
+ Ưu điểm : Với phương án này sản phẩm được đưa ra thị trường sẽ được đa số người chấp nhận do doanh nghiệp đã thử nghiệm kỹ lưỡng.
+ Nhược điểm :Phương án này lại tốn rất nhiều thời gian, tiền của, mà có thể gây phản ứng không đáng có từ phía khách hàng.
* Phương pháp nghiên cứu, phân tích :
Doanh nghiệp nghiên cứu chặt chẽ các biến cố, ràng buộc liên quan tới mục tiêu cần hướng tới, sử dụng các mô hình toán học để phân tích, xây dựng chính sách sản phẩm.
+ Ưu điểm : Phương pháp này có tính khả thi cao, xác thực với nhu cầu thị trường nên dễ được khách hàng chấp nhận.
+ Nhược điểm : Với phương pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải thành lập một phòng nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm riêng. Như vậy thì doanh nghiệp phải tốn thêm về nguồn vốn và nguồn lực.
Việc xây dựng và nghiên cứu chính sách sản phẩm trong doanh nghiệp kinh doanh du lịch là một công việc hết sức khó khăn và dễ mắc sai lầm bởi tính vô hình của sản phẩm. Vì vậy khi tiến hành nghiên cứu chính sách sản phẩm ta phải đặc biệt quan tâm tới các phương án cho thích hợp dễ thực hiện và dễ thay đổi, dễ thích nghi với từng thời điểm kinh doanh vì chính sách sản phẩm có vị trí đặc biệt quan trọng, quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và chi phối các chính sách khác. Nó là hạt nhân trong các phương án kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Nội dung chính sách sản phẩm
3.1. Nội dung chính sách sản phẩm
3.1.1 Xác định kích thước của tập sản phẩm
Khích thước tập sản phẩm gồm 4 thông số sau :
Chiều dài : Thể hiện loại sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp sẽ cung ứng trên thị trường, tức phản ánh mức độ đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường
- Chiều rộng : Kích thước sản phẩm đó chính là số sản phẩm khác nhau trong một danh mục sản phẩm.
- Chiều sâu : Là số sản phẩm trung bình trong một chủng loại hay mỗi dòng.
- Mức độ tương thích : Là số sản phẩm trung bình trong một chủng loại hay mỗi dòng sản phẩm trong danh mục sản phẩm, nó tạo nên sự phối hợp giữa các nhu cầu mong muốn của khách hàng và hệ thống dịch vụ của doanh nghiệp.
Như vậy, trong chiến lược sản phẩm doanh nghiệp có nhiều các lựa chọn : chiều dài, chiều rộng hoặc cố định ở một vài loại để phát triển về chiều rộng hoặc chỉ có một loại nhưng có nhiều mẫu mã khác nhau, chính sách sản phẩm sẽ giải đáp các vấn đề đó.
3.1.2. Nghiên cứu phát triển sản phẩm mới
Theo tác giả Booz, Alen và Hamiton thì có 6 loại sản phẩm mới đối với doanh nghiệp và thị trường :
- Sản phẩm mới đối với thế giới
- Loại sản phẩm mới
- Bổ xung loại sản phẩm mới hiện có
- Cải tiến sản phẩm hiện có
- Sản phẩm được định vị lại
- Sản phẩm giảm chi phí
Như vậy, sản phẩm mới có thể là mới hoàn toàn hoặc do cải tiến sản phẩm cũ, hoặc là sản phẩm chưa từng xuất hiện trên thị trường trong và ngoài nước.
Trong thời điểm kinh tế thị trường hiện nay, với việc phát triển sản phẩm mới là một yêu cầu tất yếu khách quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Vì mỗi sản phẩm đều có vòng đời nhất định khi sản phẩm đang khing doanh ở giai đoạn chín muồi doanh nghiệp đã phải nghĩ đến phát triển sản phẩm mới, nếu không sản phẩm hiện tại sẽ bị suy thoái và không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Chính vì vậy mà việc phát triển sản phẩm mới do các nguyên nhân sau :
- Việc cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt và quyết liệt đã chuyển trọng tâm từ giá cả sang chất lượng sản phẩm dịch vụ, nó đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn tìm cách năng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm hiện có, hoặc tạo ra các sản phẩm mới để giành được vị thế cạnh tranh.
- Đời sống của đại bộ