Đất đai được xác định là tài sản vô giá của quốc gia, là t ư liệu sản xuất đặc biệt,
là địa bàn phân bổ các khu dân cư, các ngành kinh tế, là bộ phận cơ bản của lãnh thổ
quốc gia, là thành phần quan trọng bậc nhất của môi trường sống.
Đất đai có giá trị như vậy nên con người luôn luôn có mong muốn tác động vào
nó thường xuyên và tích cực để tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần phục vụ đời sống
cho mình. Sự chuyển dịch đất đai từ chủ thể sử dụng này sang chủ thể sử dụng khác là
một quy luật vận động tất yếu. Luật đất đai 1993 cho phép chuyển quyền sử dụng đất là
một bước đột phá quan trọng trong việc quy định các quyền của người sử dụng đất, mở ra
thời kỳ mới tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ đất đai vận động phù hợp với cơ chế
thị trường. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các quan hệ xã hội không ngừng diễn ra
sôi động trong nền kinh tế thị trường, các quy định pháp luật này tỏ ra không thật phù
hợp và còn nhiều bất cập. Luật đất đai 1993 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung vào các
năm 1998 và 2001. Mặc dù vậy các văn bản này vẫn chưa thật phù hợp với nhu cầu điều
chỉnh các quan hệ chuyển quyền sử dụng đất. Ngày 26/11/2003, Quốc hội thông qua Luật
đất đai mới với nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với Luật đất đai năm 1993, trong đó các
quy định về chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng có nhiều điểm mới.
Chuyển quyền sử dụng đất thực chất là việc Nhà nước công nhận tính hợp pháp
trong hành vi tự điều chỉnh đất đai giữa người sử dụng đất để tạo lập quyền sử dụng cho
chủ thể mới. Chuyển quyền sử dụng đất theo luật đất đai 2003 bao gồm chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, tặng cho, góp vốn
bằng quyền sử dụng đất. Trong các hình thức này, chuyển nhượng quyền sử dụng đất là
hình thức giao dịch phổ biến và sôi động nhất. Luật đất đai xác định người sử dụng đất
hợp pháp, không có tranh chấp có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật có quyền
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình cho người khác. Nhờ thế người sử dụng đất
hợp pháp ngoài việc khai thác sử dụng còn có thể chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
người khác để thu về một khoản tiền tương ứng với giá trị của nó, đất đai trở thành tài
sản có giá và quyền sử dụng đất tham gia vào thị trường bất động sản.
86 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3076 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật
dân sự Việt Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai được xác định là tài sản vô giá của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt,
là địa bàn phân bổ các khu dân cư, các ngành kinh tế, là bộ phận cơ bản của lãnh thổ
quốc gia, là thành phần quan trọng bậc nhất của môi trường sống.
Đất đai có giá trị như vậy nên con người luôn luôn có mong muốn tác động vào
nó thường xuyên và tích cực để tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần phục vụ đời sống
cho mình. Sự chuyển dịch đất đai từ chủ thể sử dụng này sang chủ thể sử dụng khác là
một quy luật vận động tất yếu. Luật đất đai 1993 cho phép chuyển quyền sử dụng đất là
một bước đột phá quan trọng trong việc quy định các quyền của người sử dụng đất, mở ra
thời kỳ mới tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ đất đai vận động phù hợp với cơ chế
thị trường. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các quan hệ xã hội không ngừng diễn ra
sôi động trong nền kinh tế thị trường, các quy định pháp luật này tỏ ra không thật phù
hợp và còn nhiều bất cập. Luật đất đai 1993 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung vào các
năm 1998 và 2001. Mặc dù vậy các văn bản này vẫn chưa thật phù hợp với nhu cầu điều
chỉnh các quan hệ chuyển quyền sử dụng đất. Ngày 26/11/2003, Quốc hội thông qua Luật
đất đai mới với nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với Luật đất đai năm 1993, trong đó các
quy định về chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng có nhiều điểm mới.
Chuyển quyền sử dụng đất thực chất là việc Nhà nước công nhận tính hợp pháp
trong hành vi tự điều chỉnh đất đai giữa người sử dụng đất để tạo lập quyền sử dụng cho
chủ thể mới. Chuyển quyền sử dụng đất theo luật đất đai 2003 bao gồm chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, tặng cho, góp vốn
bằng quyền sử dụng đất. Trong các hình thức này, chuyển nhượng quyền sử dụng đất là
hình thức giao dịch phổ biến và sôi động nhất. Luật đất đai xác định người sử dụng đất
hợp pháp, không có tranh chấp có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật có quyền
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình cho người khác. Nhờ thế người sử dụng đất
hợp pháp ngoài việc khai thác sử dụng còn có thể chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
người khác để thu về một khoản tiền tương ứng với giá trị của nó, đất đai trở thành tài
sản có giá và quyền sử dụng đất tham gia vào thị trường bất động sản.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất diễn ra
với nhiều phức tạp. Tình trạng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trái pháp luật vẫn diễn
ra khá phổ biến. Đây cũng là lý do chứng minh cho sự cần thiết để nghiên cứu tìm hiểu
bản chất pháp lý hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất so với những hợp đồng dân
sự khác. Sự nhận thức đúng đắn đầy đủ các quy định về hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất là cấp thiết trong hoạt động thực tiễn khi thực hiện pháp luật và vận dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án.
Những điều trình bày trên đây chính là lý do của việc chọn đề tài "Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam" làm
luận văn thạc sĩ của học viên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian vừa qua, ở nước ta đã có một số nhà khoa học, nhà quản lý
nghiên cứu thực trạng của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, qua đó có đưa ra những đánh giá hoặc thậm chí làm cơ sở cho việc
sửa đổi, bổ sung các quy định về chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói chung. Nay trên
cơ sở đó, tác giả có sự tổng hợp và kế thừa để nghiên cứu một cách có hệ thống, từ đó
phân tích và đưa ra những nhận định, đánh giá của mình về các quy định pháp luật về
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nước ta.
Từ đánh giá thực trạng của pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
thực tiễn của quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất diễn ra trong nền kinh tế thị
trường của thời gian vừa qua, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về lĩnh vực này, tôi
thấy rằng việc nghiên cứu một cách có hệ thống và phân tích các quy định của hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất để đưa ra biện pháp hoàn thiện nó có ý nghĩa rất lớn
trong tình hình hiện nay.
3. Mục đích, phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Pháp luật hiện hành quy định nhiều loại quan hệ chuyển dịch quyền sử dụng đất
như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh, tặng cho, góp
vốn, thừa kế quyền sử dụng đất. Tác giả lựa chọn nghiên cứu một loại quan hệ được coi
là phổ biến và quan trọng nhất - quan hệ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá, những quy định về hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để trên cơ sở đó đưa ra những phương hướng,
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất để góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ chuyển nhượng
quyền sử dụng đất.
Để đạt được mục đích trên tác giả đã đi sâu phân tích các khái niệm cơ bản, có
liên quan đến vấn đề chuyển nhượng quyền sử dụng và phân tích các nội dung của hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài luận là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng
về Nhà nước về đất đai.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp so sánh, phân tích,
tổng hợp...
5. ý nghĩa của kết quả nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo tại các
cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học. Một số giải pháp của đề tài có giá trị tham khảo
đối với các cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ở nước ta.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng và hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Chương 2: Thực trạng pháp luật hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
theo pháp luật dân sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và cơ chế áp dụng luật về hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Chương 1
Những vấn đề lý luận
về chuyển nhượng quyền sử dụng và hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
1.1. Khái niệm quyền sử dụng đất và chuyển quyền sử dụng đất
1.1.1. Khái niệm quyền sử dụng đất
Khi nói đến quyền sở hữu đất đai, chúng ta thấy với tư cách là đại diện chủ sở
hữu, nhà nước có đầy đủ các quyền chiếm hữu sử dụng và định đoạt đất đai. Trong các
quyền năng đó quyền sử dụng là có ý nghĩa thực tế lớn nhất, trực tiếp đem lại lợi ích cho
chủ sở hữu. Nhưng nhà nước không phải là chủ thể trực tiếp sử dụng đất mà gián tiếp sử
dụng thông qua các tổ chức, cá nhân trong xã hội bằng cách giao đất, cho thuê đất và
công nhận quyền sử dụng đất cho những người sử dụng đất trực tiếp.
Thực vậy, quyền sử dụng đất trước hết chúng ta phải hiểu được đây là một quyền
tự nhiên, khi con người chiếm hữu đất đai, thì họ sẽ thực hiện hành vi sử dụng đất mà cụ
thể là khai thác tính năng sử dụng của đất đai mà không quan tâm đến hình thức sở hữu
của nó. Thông qua hành vi sử dụng đất mà con người có thể thỏa mãn những nhu cầu của
mình cũng như làm ra của cải cho xã hội. Chẳng hạn:
+ Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, đất đai
được xem như là tư liệu sản xuất quan trọng nhất và không thể thiếu. Nhờ việc thực hiện
quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã khai thác nguồn lợi trực tiếp từ đất đai. Nếu
như không có đất đai, thì lao động của con người không thể sản sinh ra lúa, gạo để phục
vụ cho các nhu cầu thiết yếu thường ngày. Khi xác định mối quan hệ giữa lao động và đất
đai, C. Mác cho rằng: "Lao động là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất nhưng không
phải là yếu tố duy nhất tạo ra của cải vật chất- Lao động phải kết hợp với đối tượng lao
động mới sản xuất ra của cải vật chất" [19].
+ Trong cuộc sống, đất đai là nơi trú ngụ của con người, nhờ có đất đai và thông
qua hành vi sử dụng đất, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp, con người mới có thể tồn tại, như
đi lại, vui chơi, lao động, nghỉ ngơi. Nếu như không có đất đai thì không có cuộc sống
của con người.
+ Thông qua hành vi sử dụng đất trong các lĩnh vực quản lý, kinh tế, chính trị, xã
hội, an ninh, quốc phòng, con người mới tạo ra các giá trị vật chất, tinh thần để thúc đẩy
sự phát triển chung của nhân loại.
Ngoài ra, quyền sử dụng đất được xem như là một quyền năng pháp lý, quyền
năng này được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. ở đây chúng chúng ta đi sâu phân tích quyền
sử dụng đất dưới góc độ chính trị- pháp lý.
Như chúng ta đã biết, kể từ Hiến pháp 1980 ra đời, đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
Nhà nước vừa là người đại diện chủ sở hữu vừa là chủ quản lý đối với đất đai. Tuy nhiên,
trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1987, trên thực tế Nhà nước ta chưa xác lập được
một cách đầy đủ quyền sở hữu chủ của mình đối với đất đai, đặc biệt là đất đai đang
thuộc quyền chiếm hữu, sử dụng của các tổ chức, hộ gia đình cá nhân. Việc khẳng định,
tuyên bố chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở trong giai đoạn này chỉ là một cuộc cải cách
trên văn bản pháp quy. Người đang sử dụng đất cảm thấy "đột ngột" vì mình không phải
là sở hữu chủ thửa đất nhưng lại thấy dường như chẳng mất mát gì vì mình vẫn được
quyền khai thác sử dụng đất đai vốn không còn thuộc sở hữu của mình. Tuy nhiên, chúng
ta có thể thấy rằng trong giai đoạn này các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất chưa
được quan tâm thỏa đáng, pháp luật mới chỉ chú trọng đến lợi ích của Nhà nước mà chưa
có giải pháp cho quyền lợi của người đang sử dụng đất vốn là chủ sở hữu trước đó. Thực
trạng này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến người sử dụng đất không chủ
động khai thác hết tiềm năng của đất đai, tạo ra sự khủng hoảng kinh tế nông nghiệp ở
nước ta trong những năm đầu của thập niên 1980.
Ngày 29/12/1987, Quốc hội thông qua Luật đất đai gồm 6 chương 57 điều. Đây
là bước khởi đầu cho việc xác lập mối quan hệ giữa Nhà nước với tư cách là người đại
diện chủ sở hữu về đất đai và người sử dụng đất. Luật đã quy định một cách cụ thể, có hệ
thống nghĩa vụ và quyền lợi của người sử dụng đất. Với những quy định này, chế định về
quyền sử dụng đất được hình thành, nó được xây dựng trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu
của toàn dân, quyền sử dụng đất được Nhà nước ghi nhận như là một hình thức thể hiện
của chủ sở hữu mà Nhà nước là người đại diện. Nhà nước giao đất, ghi nhận cho các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất để khai thác công dụng và hưởng hoa
lợi, lợi tức từ đất đai. Thực tế, Luật đất đai năm 1987 bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý để
phát huy quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai, thiết lập được một sự ổn định nhất định
trong việc sử dụng đất đai. Tuy nhiên, do có sự tác động của cơ chế thị trường, nhu cầu
sử dụng đất ngày càng trở nên bức xúc, trong khi Nhà nước vừa không chú trọng đến các
yếu tố kinh tế của đất đai vừa nghiêm cấm việc mua bán, chuyển nhượng đất đai dưới
mọi hình thức, tạo nên một lực cản cho sự vận động, chuyển dịch của quyền sử dụng đất,
làm kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước. Trước tình hình đó, Hiến pháp 1992 và
Luật đất đai năm 1993 ra đời, đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong việc quy định
quyền của người sử dụng đất, một mặt pháp luật tiếp tục khẳng định đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, thừa nhận và bảo vệ quyền sử dụng đất hợp
pháp của người sử dụng đất, mặt khác, pháp luật đã thực sự quan tâm đến quyền của
người sử dụng đất, đó là ghi nhận người sử dụng đất hợp pháp có quyền chuyển quyền sử
dụng đất, bao gồm các quyền: chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, thừa kế, thế chấp
quyền sử dụng đất Tuy nhiên, việc thực hiện các quyền này không phải là hoàn toàn tự do
mà phải tuân theo những điều kiện do Nhà nước đặt ra. Như vậy, trong giai đoạn này
quyền sử dụng đất của người sử dụng đất đã được mở rộng hơn, có thể nói Nhà nước đã
"trao" cho người sử dụng đất "quyền định đoạt số phận pháp lý của thửa đất sử dụng
trong một khuôn khổ nhất định", nhờ đó người sử dụng đất ngoài việc có quyền khai thác
sử dụng đất đai của mình còn có thể chủ động thực hiện chuyển quyền sử dụng đất đó
cho người khác khi không có nhu cầu hoặc điều kiện sử dụng đất. Đây là điểm đột phá
lớn nhất của Luật đất đai năm 1993, tạo tiền đề cho việc hình thành và phát triển thị
trường quyền sử dụng đất, làm cho người sử dụng đất phát huy tối đa hiệu quả kinh tế
mang lại từ đất. Từ đó, cùng với việc pháp luật thừa nhận đất đai có giá bằng việc Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, quyền sử dụng đất đất đã được xem như là một
quyền tài sản, có thể trị giá được bằng tiền, nhờ đó mà người sử dụng đất có thể đưa
quyền sử dụng đất của mình vào tham gia các giao dịch dân sự.
Luật đất đai năm 1993 khẳng định người sử dụng đất có quyền chuyển nhượng
sử dụng đất và nay luật đất đai 2003 ghi nhận chính thức chuyển tặng cho quyền sử dụng
đất tuy nhiên không thể đồng nhất quyền sở hữu đất đai với quyền sử dụng đất bởi chúng có
sự khác nhau về cả nội dung, ý nghĩa cụ thể.
- Quyền sở hữu đất đai là quyền ban đầu (có trước), còn quyền sử dụng đất là
quyền phái sinh (có sau) xuất hiện khi được nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất, cho
phép nhận chuyển quyền sử dụng đất hay công nhận quyền sử dụng đất.
- Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền trọn vẹn, đầy đủ còn quyền sử dụng đất
lại không trọn vẹn, đầy đủ. Bởi vì, thứ nhất, người sử dụng đất không có đầy đủ các
quyền năng như Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu; thứ hai, không phải người
nào cứ có quyền sử dụng đất hợp pháp là có đủ 9 quyền của người sử dụng đất. Luật đất
đai 2003 có sự phân biệt giữa các chủ thể sử dụng đất. Chẳng hạn, chủ hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất không phải là đất thuê mới có quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất
nông nghiệp trong cùng một xã, phường, thị trấn với hộ gia đình khác (Điều 113) tổ chức
kinh tế được Nhà nước cho thuê đất theo hình thức trả tiền thuê đất hàng năm chỉ có
quyền bán, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với
đất thuê mà không được thực hiện các quyền chuyển nhượng, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn
bằng quyền sử dụng đất thuê (Điều 111). Hoặc chỉ những người sử dụng đất theo hình
thức giao đất trả tiền sử dụng đất và thuê đất theo hình thức trả tiền thuê đất một lần cho
cả thời gian thuê đấy đã được trả tiền cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền
còn lại ít nhất
5 năm mới được pháp luật cho hưởng đầy đủ 9 quyền năng nói trên.
Như vậy, chế định quyền sử dụng đất được xem như là một hình thức thực hiện
quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Theo đó, Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu,
có quyền định đoạt toàn bộ đất đai trên phạm vi toàn quốc và về mặt pháp lý, Nhà nước
có đầy đủ ba quyền năng của chủ sở hữu theo luật định. Tuy nhiên, Nhà nước lại không
trực tiếp chiếm hữu,sử dụng đất đai mà thông qua quyền định đoạt tối cao của mình cho
các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất bằng các hình thức giao đất, cho
thuê đất, thừa nhận việc sử dụng đất ổn định hoặc công nhận quyền sử dụng đất được xác
lập bởi các hành vi chuyển quyền sử dụng đất hợp pháp. Tùy thuộc vào các hình thức
khác nhau mà Nhà nước quy định cho họ được hưởng những quyền và thực hiện những
nghĩa vụ khác nhau.
Từ phân tích trên, chúng ta thấy, quyền sử dụng đất là một loại quyền đặc trưng
của người sử dụng đất, nó được phái sinh từ quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Đây là loại
quyền phát sinh trên cơ sở kết hợp một cách đặc thù quyền tài sản của chủ sở hữu với yếu
tố quyền lực nhà nước. Vì vậy, quyền chuyển quyền sử dụng đất cũng như quyền nhận
chuyển quyền sử dụng đất không phải được áp dụng đối với tất cả các chủ thể mà nó bị
hạn chế bởi quyền lực nhà nước. Điều này thể hiện ở chỗ, Nhà nước ban hành các quy
định của pháp luật một cách chặt chẽ về hình thức, thủ tục, điều kiện, quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia quan hệ chuyển quyền sử dụng đất.
Tóm lại, quyền sử dụng đất là quyền khai thác những thuộc tính có lợi từ đất
một cách hợp pháp thông qua các hành vi sử dụng đất hoặc chuyển quyền đó cho người
khác. Quá trình hình thành, vận động và phát triển của quyền sử dụng đất vừa diễn ra
một cách tất yếu, khách quan vừa có sự gắn liền và lệ thuộc với chế định quyền sở hữu
toàn dân đối với đất đai mà Nhà nước là người đại diện. Tuy nhiên, quyền sử dụng đất
của người sử dụng đất là một phạm trù khá rộng, bao gồm nhiều quyền năng pháp lý
khác nhau, trong đó, có quyền được chuyển quyền sử dụng đất. Các quyền này phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nằm trong một "khuôn khổ" nhất định. Khuôn khổ đó
chính là ý chí của Nhà nước được thực hiện bằng việc ban hành các quy định của pháp
luật bắt buộc người sử dụng đất và các cơ quan quản lý nhà nước phải tuân theo. Các
quy định này vừa có tính ổn định, vừa có sự biến đổi tùy thuộc vào từng giai đoạn phát
triển của xã hội. Từ chỗ chỉ ghi nhận người người sử dụng đất chỉ có 5 quyền chuyển
quyền sử dụng đất tại Luật đất đai năm 1993, Nhà nước đã mở rộng cho người người sử
dụng đất có thêm quyền cho thuê lại, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong một
số trường hợp nhất định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai ngày
01/12/1998 và các quyền này tiếp tục được khẳng định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật đất đai ngày 29/6/2001 và đặc biệt là Luật đất đai 2003 được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 26/11/2003.
Trong điều kiện hiện nay, để khuyến khích khai thác mọi tiềm năng đất đai, góp
phần thúc đẩy sự năng động của các yếu tố tích cực khi được Nhà nước giao quyền sử
dụng đất, Nhà nước đang có xu hướng ngày càng mở rộng quyền năng của người sử dụng
đất. Việc mở rộng quyền cho người sử dụng đất thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà
nước đến người sử dụng đất, là một trong những điều kiện thúc đẩy việc khai thác tiềm
năng đất đai theo hướng sản xuất hàng hóa, đồng thời có tác dụng thúc đẩy sự phát triển
ngày càng mạnh mẽ, năng động của thị trường quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, việc mở
rộng này không đồng nghĩa với việc Nhà nước phân phối hoặc từ bỏ quyền của chủ sở
hữu, dù có mở rộng quyền đến đâu thì nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân vẫn giữ
vững. Người sử dụng đất chỉ được thực hiện những quyền năng của mình mà pháp luật
ghi nhận và phải thực hiện những quyền đó trong sự ràng buộc, chi phối và kiểm soát của
Nhà nước, đó là phải tuân thủ những nguyên tắc, trình tự, thủ tục, điều kiện và các nghĩa
vụ do pháp luật quy định. Tùy từng trường hợp, đối tượng sử dụng đất nhất định mà pháp
luật quy định cho họ có những quyền năng pháp lý cụ thể.
1.1.2. Khái niệm chuyển quyền sử dụng đất
Quyền sử dụng đất là khái niệm có nội dung rộng, trong đó có nhiều quyền năng
khác nhau. Một trong những quyền năng cơ bản và đặc biệt quan trọng của người sử
dụng đất là quyền chuyển quyền sử dụng đất. Trong nền kinh tế thị trường, quyền sử
dụng đất là một loại tài sản được chuyển quyền sử dụng, được đưa trao đổi, giao dịch.
Chuyển quyền sử dụng đất là việc người có quyền sử dụng đất có thể chuyển
quyền này cho người khác bằng một trong các hình thức: chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, góp vốn, thế chấp và bảo
lãnh bằng giá trị quyền sử dụng đất. Chuyển quyền sử dụng đất là việc Nhà nước công
nhận tính hợp pháp trong hành vi tự điều chỉnh đất của chủ thể đang sử dụng cho chủ thể
mới. Hay nói khác đi, chuyển quyền sử dụng đất là việc Nhà nước cho phép người sử
dụng đất được "định đoạt" quyền sử dụng đất hợp pháp của mình th