Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, hoạt động ngoại thƣơng đƣợc
xem nhƣ một công cụ hữu hiệu để đẩy mạnh tốc độ tăng trƣởng và phát triển kinh
tế của đất nƣớc. Gắn liền với việc XNK hàng hoá luôn là các thủ tục rắc rối, những
khó khăn do việc di chuyển qua biên giới với một khoảng cách địa lý thƣờng là rất
lớn so với buôn bán trong nội địa mang lại. Tuy nhiên "gánh nặng" XNK này lại
thƣờng đƣợc chuyển một phần thậm chí là tất cả sang vai của một ngƣời đó là
"Ngƣời giao nhận".
Với những sự phát triển của thƣơng mại quốc tế ngành giao nhận ngày càng
phát triển và giữ một vị trí quan trọng trong sự lƣu chuyển hàng hoá giữa các nƣớc
và giữa các châu lục. Trên thế giới, giao nh ận vận tải quốc tế (GNVTQT) thực sự
phát triển mạnh mẽ vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX. Tuy vậy, tại Việt Nam
giao nhận mới chỉ đƣợc thật sự quan tâm trong khoảng 15 năm trở lại đây.
GNVTQT là một khâu vô cùng quan trọng thúc đẩy quá trình dịch chuyển hàng hoá
từ ngƣời bán đến ngƣời mua diễn ra đƣợc nhanh chóng, thuận tiện hơn, giảm chi phí
và thời gian cho các bên tham gia kinh doanh, góp phần không nhỏ vào việc thực hiện
có hiệu quả các hợp đồng mua bán ngoại thƣơng. Cho nên, tuy mới ra đời nhƣng nó
đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong ngành vận tải và trong nền kinh tế
quốc dân.
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Kể từ năm “Đổi mới” 1986 đến nay, chúng ta đã trải qua gần 20 năm tăng
trƣởng, nền kinh tế nƣớc ta đang trong quá trình chuyển dần sang nền kinh tế sản xuất
hàng hoá nhiều thành phần, một nền kinh tế mở cửa và vận hành theo cơ chế thị
trƣờng có sự điều tiết của nhà nƣớc. Nền kinh tế mở cửa này đã tạo điều kiện cho
thƣơng mại quốc tế phát triển nhằm đảm bảo sự lƣu thông hàng hóa với nƣớc ngoài,
khai thác tiềm năng và thế mạnh của nƣớc ta và thế giới. Bằng việc thu hút ngày càng
nhiều các nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp từ nƣớc ngòai cộng với việc phát huy mạnh mẽ
nội lực của nền kinh tế trong nƣớc, tốc độ tăng trƣởng kinh tế của nƣớc ta, đặc biệt
quan hệ buôn bán với nƣớc ngoài ngày càng tăng, lƣợng hàng hoá XNK hàng năm
tăng mạnh. Năm 2003 vừa qua đƣợc đánh giá là một năm thành công của Việt Nam
với tốc độ tăng trƣởng đạt gần 7,2%, cao nhất trong khu vực Châu Á Thái Bình
Dƣơng. Chính sách mở cửa hội nhập với nƣớc ngoài đã tạo ra những cơ hội mới cho
- 2 -nền kinh tế Việt Nam, tạo ra thị trƣờng to lớn đầy tiềm năng nhƣng cũng đang đặt ra
nhiều thách thức cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nói chung và
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải nói riêng.
Việt Nam có điều kiện địa lý thuận lợi với hơn 3000 km bờ biển chạy dài theo
đất nƣớc nằm dọc bờ biển Thái Bình Dƣơng, nhiều cảng biển tự nhiên, rất thuận lợi
cho sự phát triển ngành vận tải biển. Do vậy, ngành vận tải biển Việt Nam đã xuất
hiện từ rất lâu và đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và
trong việc mua bán trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam và phần còn lại của thế giới.
Giao thƣơng bằng đƣờng biển đã hình thành và phát triển, ngành vận tải biển đã đƣợc
chú trọng nhƣ một phƣơng thức vận chuyển phổ biến nhất.
Kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, đáng chú ý là từ
năm 1990 trở lại đây, ngành nghề dịch vụ GNVTQT đã phát triển mạnh cả về số
lƣợng kim ngạch, quy mô hoạt động cũng nhƣ phạm vi thị trƣờng với nƣớc ngoài.
Đây là một loại dịch vụ thƣơng mại không cần đầu tƣ nhiều vốn nhƣng lợi nhuận
tƣơng đối ổn định. Chúng ta có thể nhận định rằng việc phát triển kinh doanh dịch vụ
GNVTQT ở nƣớc ta đã mang lại những hiệu quả kinh tế thiết thực. GNVTQT tạo ra
đƣợc sự chuyên môn hóa cao trong các khâu của họat động kinh tế ngoại thƣơng, qua
đó giảm thiểu đƣợc các chi phí phát sinh trong quá trình vận chuyển. Đây cũng là một
ngành nghề còn đang đƣợc bỏ ngỏ, do vậy nó có khả năng tạo ra đƣợc thêm công ăn
việc làm cho ngƣời dân lao động. Phát triển các dịch vụ GNVTQT ở Việt Nam tạo sức
mạnh cho nền kinh tế chống lại việc nhập siêu ồ ạt các sản phẩm vô hình này từ nƣớc
ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì hiện nay công tác giao nhận
hàng hóa XNK nói chung và kinh doanh dịch vụ GNVTQT nói riêng đang gặp phải
một số khó khăn nhƣ sau:
- Do đây là một lĩnh vực, một loại hình kinh doanh còn nhiều mới mẻ và ngƣời kinh
doanh trong lĩnh vực này còn thiếu nhiều kinh nghiệm thực tế trong giai đoạn mà
nền kinh tế của nƣớc ta đang tìm cách hội nhập với kinh tế thế giới.
- Chủ trƣơng chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng
theo định hƣớng XHCN vẫn còn chƣa đƣợc thực thi một cách triệt để, nền kinh tế
vẫn còn mang nặng tính bao cấp, độc quyền trong kinh doanh vẫn là một thực tế,
do đó việc kết hợp giữa các ngành, các cấp với công tác giao nhận hàng hóa XNK
vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập cần sửa đổi.
- 3 -- Cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác giao nhận hàng hóa XNK nhìn chung là thiếu
thốn và lạc hậu.
- Nhiều văn bản pháp luật còn chồng chéo và không thống nhất về quan điểm nên
chƣa tạo ra đƣợc một hành lang pháp lý thông thoáng cho công tác giao nhận, phát
sinh nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong kinh doanh giao nhận hàng hóa XNK.
- Do đặc điểm của nền kinh tế và thói quen của ngƣời XNK nên chúng ta đang gặp
phải sự cạnh tranh gay gắt về hàng hóa và thị trƣờng đối với các công ty giao nhận
nƣớc ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính vì lẽ đó việc nghiên cứu, nhằm phát họa rõ nét về lĩnh vực giao nhận
hàng hóa thông qua việc mô tả các hình thức dịch vụ GNVTQT cũng nhƣ những lợi
ích mà nó đem lại, đánh giá thực trạng những thuận lợi và khó khăn của GNVTQT, từ
đó đề xuất những giải pháp để phát triển các dịch vụ trong hoạt động GNVTQT ở Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một việc làm thiết thực và cần thiết.
Trên cơ sở nhận thức nhƣ vậy, tôi đã chọn đề tài cho luận văn thạc sỹ là: “Một
số dịch vụ trong giao nhận vận tải quốc tế và giải pháp phát triển ở Việt Nam”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài này trong và ngoài nƣớc:
Tới nay cũng đã có một số tác giả tập trung nghiên cứu về lý luận giao nhận
hàng hóa và tình hình giao nhận hàng hóa XNK trên thế giới nói chung, tuy nhiên
chƣa có một tác giả nào nghiên cứu về các dịch vụ trong GNVTQT tại Việt Nam cũng
nhƣ về các dịch vụ sẵn có mà ngƣời giao nhận có thể cung cấp để từ đó có thể xây
dựng chiến lƣợc nhằm áp dụng vào môi trƣờng kinh tế-xã hội của Việt Nam. Đây
cũng chính là một trong những lý do mà tác giả đã chọn đề tài này để làm luận văn
thạc sỹ của mình. Hơn nữa, đây là luận văn nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống,
khoa học, đánh giá thực trạng về một số dịch vụ trong GNVTQT, lấy các ví dụ minh
họa từ một số công ty giao nhận tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua nhằm đƣa ra
một số giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới.
119 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1992 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số dịch vụ trong giao nhận vận tải quốc tế và giải pháp phát triển ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠI HỌC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
----------------
NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG
MỘT SỐ DỊCH VỤ TRONG GIAO NHẬN VẬN TẢI
QUỐC TẾ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM
0BChuyªn ngµnh: 1BKinh tÕ thÕ giíi vµ quan hÖ kinh tÕ quèc tÕ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Vũ Sỹ Tuấn
Hà nội 2004
i
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ
VÀ MỘT SỐ DỊCH VỤ TRONG GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ
I/ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ 5
1. Khái niệm, quá trình hình thành và phát triển của GNVTQT 5
1.1. Những khái niệm chung về GNVTQT 5
1.2. Quá trình hình thành và phát triển các dịch vụ trong GNVTQT 6
2. ý nghĩa của hoạt động cung cấp dịch vụ trong GNVTQT 8
3. Mét sè tæ chøc liªn quan ®Õn GNVTQT. 10
3.1. Liên đoàn các Hiệp hội giao nhận Quốc tế - FIATA 10
3.2. Tổ chức Hải quan Thế giới - WCO 11
3.3. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam - VIFFAS 12
II/ CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA DỊCH VỤ GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ 15
1. Quy định Quốc tế về giao nhận vận tải đƣờng biển. 15
1.1. Công ước Liên hợp quốc về chuyên chở hàng hoá bằng VTĐPT 15
1.2. Quy tắc về chứng từ VTĐPT của UNCTAD/ICC 1992 16
1.3. Công ước Quốc tế để thống nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển 17
1.4. Công ước LHQ về chuyên chở hàng hoá bằng đường biển - Hamburg 1978 17
2. Quy định của Việt Nam về dịch vụ trong giao nhận vận tải quốc tế 18
2.1 Bộ luật hàng hải Việt Nam 18
2.2 Luật thương mại Việt Nam 19
2.3 Nghị định 10/2001/NĐ-CP 21
III/ MỘT SỐ DỊCH VỤ TRONG GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ 22
1. Dịch vụ khai thuê hải quan (Customer Broker) 23
2. Đại lý vận tải (Agent) 28
3. Dịch vụ chuyên chở, kinh doanh cƣớc vận chuyển (Freight Forwarder) 31
4. Dịch vụ gom hàng (Cargo Consolidation) 35
ii
5. Tổ chức vận tải đa phƣơng thức (Multimodal Transport) 39
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC TRIỂN KHAI CÁC DỊCH VỤ
TRONG GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
I/ THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƢỜNG, HÀNG HOÁ 44
1. Thực trạng về thị trƣờng dịch vụ trong GNVTQT ở Việt Nam 44
2. Thực trạng về hàng hóa GNVTQT ở Việt Nam 48
3. Đánh giá thực trạng thị trƣờng, hàng hoá của dịch vụ GNVTQT ở Việt Nam 49
II/ THỰC TRẠNG VỀ CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT 51
1. Thực trạng về cảng biển 51
2. Thực trạng về đội tàu của Việt Nam 55
III/ THỰC TRẠNG VỀ CÁC CHI PHÍ LIÊN QUAN ĐẾN DỊCH VỤ TRONG
GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ
57
1. Các loại chi phí liên quan đến dịch vụ trong giao nhận vận tải quốc tế 57
2. Thực trạng về phí và chi phí giao nhận vận tải quốc tế 62
2.1 Xu hướng giảm giá để cạnh tranh 62
2.2 Chi phí hoa hồng trong kinh doanh dịch vụ GNVTQT 63
2.3 Hoa hồng đại lý vận tải 64
IV/ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VIỆC TRIỂN KHAI CÁC DỊCH VỤ GIAO
NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
65
1. Những khó khăn chung 65
2. Vấn đề về quản lý và khai báo thuế 74
3. Các vấn đề trong việc hoàn thiện nghiệp vụ 77
4. Sự phối kết hợp kém hiệu quả với các ngành khác 78
5. Một số nguyên nhân của những tồn tại trên 79
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ
TRONG GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
I/ PHƢƠNG HƢỚNG PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ GIAO NHẬN VẬN TẢI
QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
81
1. Sự cần thiết phải đƣa ra giải pháp nhằm phát triển, nâng cao chất lƣợng dịch vụ
trong GNVTQT ở Việt Nam
81
iii
2. Phƣơng hƣớng phát triển dịch vụ GNVTQT ở Việt Nam 83
2.1. Mục tiêu của ngành GNVTQT trong giai đoạn từ năm 2005 cho tới 2020. 83
2.2. Triển vọng phát triển dịch vụ GNVTQT ở Việt Nam 83
II/ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ TRONG GIAO NHẬN
VẬN TẢI QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
86
1. Các giải pháp vĩ mô 86
1.1. Cải tổ hành lang pháp lý và quản lý vĩ mô của Nhà nước 86
1.2. Tổ chức lại quy mô các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ GNVTQT 89
1.3 Lành mạnh hoá cạnh tranh trong lĩnh vực GNVTQT 90
1.4. Quản lý thống nhất hoạt động kinh doanh 91
2. Các giải pháp vi mô 92
2.1. Nâng cấp cơ sở hạ tầng 92
2.2 Tăng thêm nguồn hàng hoá, mở rộng thị trường cho GNVTQT 98
2.3. Nâng cao chất lượng cán bộ giao nhận và dịch vụ GNVTQT 101
2.4. Kiểm soát hiệu quả các chi phí trong GNVTQT 105
2.5. Phối hợp hài hoà hoạt động của các ngành liên quan 107
2.6. Nâng cao vai trò của Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam 110
KẾT LUẬN 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, hoạt động ngoại thƣơng đƣợc
xem nhƣ một công cụ hữu hiệu để đẩy mạnh tốc độ tăng trƣởng và phát triển kinh
tế của đất nƣớc. Gắn liền với việc XNK hàng hoá luôn là các thủ tục rắc rối, những
khó khăn do việc di chuyển qua biên giới với một khoảng cách địa lý thƣờng là rất
lớn so với buôn bán trong nội địa mang lại. Tuy nhiên "gánh nặng" XNK này lại
thƣờng đƣợc chuyển một phần thậm chí là tất cả sang vai của một ngƣời đó là
"Ngƣời giao nhận".
Với những sự phát triển của thƣơng mại quốc tế ngành giao nhận ngày càng
phát triển và giữ một vị trí quan trọng trong sự lƣu chuyển hàng hoá giữa các nƣớc
và giữa các châu lục. Trên thế giới, giao nhận vận tải quốc tế (GNVTQT) thực sự
phát triển mạnh mẽ vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX. Tuy vậy, tại Việt Nam
giao nhận mới chỉ đƣợc thật sự quan tâm trong khoảng 15 năm trở lại đây.
GNVTQT là một khâu vô cùng quan trọng thúc đẩy quá trình dịch chuyển hàng hoá
từ ngƣời bán đến ngƣời mua diễn ra đƣợc nhanh chóng, thuận tiện hơn, giảm chi phí
và thời gian cho các bên tham gia kinh doanh, góp phần không nhỏ vào việc thực hiện
có hiệu quả các hợp đồng mua bán ngoại thƣơng. Cho nên, tuy mới ra đời nhƣng nó
đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong ngành vận tải và trong nền kinh tế
quốc dân.
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Kể từ năm “Đổi mới” 1986 đến nay, chúng ta đã trải qua gần 20 năm tăng
trƣởng, nền kinh tế nƣớc ta đang trong quá trình chuyển dần sang nền kinh tế sản xuất
hàng hoá nhiều thành phần, một nền kinh tế mở cửa và vận hành theo cơ chế thị
trƣờng có sự điều tiết của nhà nƣớc. Nền kinh tế mở cửa này đã tạo điều kiện cho
thƣơng mại quốc tế phát triển nhằm đảm bảo sự lƣu thông hàng hóa với nƣớc ngoài,
khai thác tiềm năng và thế mạnh của nƣớc ta và thế giới. Bằng việc thu hút ngày càng
nhiều các nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp từ nƣớc ngòai cộng với việc phát huy mạnh mẽ
nội lực của nền kinh tế trong nƣớc, tốc độ tăng trƣởng kinh tế của nƣớc ta, đặc biệt
quan hệ buôn bán với nƣớc ngoài ngày càng tăng, lƣợng hàng hoá XNK hàng năm
tăng mạnh. Năm 2003 vừa qua đƣợc đánh giá là một năm thành công của Việt Nam
với tốc độ tăng trƣởng đạt gần 7,2%, cao nhất trong khu vực Châu Á Thái Bình
Dƣơng. Chính sách mở cửa hội nhập với nƣớc ngoài đã tạo ra những cơ hội mới cho
- 2 -
nền kinh tế Việt Nam, tạo ra thị trƣờng to lớn đầy tiềm năng nhƣng cũng đang đặt ra
nhiều thách thức cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nói chung và
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải nói riêng.
Việt Nam có điều kiện địa lý thuận lợi với hơn 3000 km bờ biển chạy dài theo
đất nƣớc nằm dọc bờ biển Thái Bình Dƣơng, nhiều cảng biển tự nhiên, rất thuận lợi
cho sự phát triển ngành vận tải biển. Do vậy, ngành vận tải biển Việt Nam đã xuất
hiện từ rất lâu và đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và
trong việc mua bán trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam và phần còn lại của thế giới.
Giao thƣơng bằng đƣờng biển đã hình thành và phát triển, ngành vận tải biển đã đƣợc
chú trọng nhƣ một phƣơng thức vận chuyển phổ biến nhất.
Kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, đáng chú ý là từ
năm 1990 trở lại đây, ngành nghề dịch vụ GNVTQT đã phát triển mạnh cả về số
lƣợng kim ngạch, quy mô hoạt động cũng nhƣ phạm vi thị trƣờng với nƣớc ngoài.
Đây là một loại dịch vụ thƣơng mại không cần đầu tƣ nhiều vốn nhƣng lợi nhuận
tƣơng đối ổn định. Chúng ta có thể nhận định rằng việc phát triển kinh doanh dịch vụ
GNVTQT ở nƣớc ta đã mang lại những hiệu quả kinh tế thiết thực. GNVTQT tạo ra
đƣợc sự chuyên môn hóa cao trong các khâu của họat động kinh tế ngoại thƣơng, qua
đó giảm thiểu đƣợc các chi phí phát sinh trong quá trình vận chuyển. Đây cũng là một
ngành nghề còn đang đƣợc bỏ ngỏ, do vậy nó có khả năng tạo ra đƣợc thêm công ăn
việc làm cho ngƣời dân lao động. Phát triển các dịch vụ GNVTQT ở Việt Nam tạo sức
mạnh cho nền kinh tế chống lại việc nhập siêu ồ ạt các sản phẩm vô hình này từ nƣớc
ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì hiện nay công tác giao nhận
hàng hóa XNK nói chung và kinh doanh dịch vụ GNVTQT nói riêng đang gặp phải
một số khó khăn nhƣ sau:
- Do đây là một lĩnh vực, một loại hình kinh doanh còn nhiều mới mẻ và ngƣời kinh
doanh trong lĩnh vực này còn thiếu nhiều kinh nghiệm thực tế trong giai đoạn mà
nền kinh tế của nƣớc ta đang tìm cách hội nhập với kinh tế thế giới.
- Chủ trƣơng chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng
theo định hƣớng XHCN vẫn còn chƣa đƣợc thực thi một cách triệt để, nền kinh tế
vẫn còn mang nặng tính bao cấp, độc quyền trong kinh doanh vẫn là một thực tế,
do đó việc kết hợp giữa các ngành, các cấp với công tác giao nhận hàng hóa XNK
vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập cần sửa đổi.
- 3 -
- Cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác giao nhận hàng hóa XNK nhìn chung là thiếu
thốn và lạc hậu.
- Nhiều văn bản pháp luật còn chồng chéo và không thống nhất về quan điểm nên
chƣa tạo ra đƣợc một hành lang pháp lý thông thoáng cho công tác giao nhận, phát
sinh nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong kinh doanh giao nhận hàng hóa XNK.
- Do đặc điểm của nền kinh tế và thói quen của ngƣời XNK nên chúng ta đang gặp
phải sự cạnh tranh gay gắt về hàng hóa và thị trƣờng đối với các công ty giao nhận
nƣớc ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính vì lẽ đó việc nghiên cứu, nhằm phát họa rõ nét về lĩnh vực giao nhận
hàng hóa thông qua việc mô tả các hình thức dịch vụ GNVTQT cũng nhƣ những lợi
ích mà nó đem lại, đánh giá thực trạng những thuận lợi và khó khăn của GNVTQT, từ
đó đề xuất những giải pháp để phát triển các dịch vụ trong hoạt động GNVTQT ở Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một việc làm thiết thực và cần thiết.
Trên cơ sở nhận thức nhƣ vậy, tôi đã chọn đề tài cho luận văn thạc sỹ là: “Một
số dịch vụ trong giao nhận vận tải quốc tế và giải pháp phát triển ở Việt Nam”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài này trong và ngoài nƣớc:
Tới nay cũng đã có một số tác giả tập trung nghiên cứu về lý luận giao nhận
hàng hóa và tình hình giao nhận hàng hóa XNK trên thế giới nói chung, tuy nhiên
chƣa có một tác giả nào nghiên cứu về các dịch vụ trong GNVTQT tại Việt Nam cũng
nhƣ về các dịch vụ sẵn có mà ngƣời giao nhận có thể cung cấp để từ đó có thể xây
dựng chiến lƣợc nhằm áp dụng vào môi trƣờng kinh tế-xã hội của Việt Nam. Đây
cũng chính là một trong những lý do mà tác giả đã chọn đề tài này để làm luận văn
thạc sỹ của mình. Hơn nữa, đây là luận văn nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống,
khoa học, đánh giá thực trạng về một số dịch vụ trong GNVTQT, lấy các ví dụ minh
họa từ một số công ty giao nhận tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua nhằm đƣa ra
một số giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới.
3. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở đánh giá khách quan thực trạng dịch vụ GNVTQT tại Việt Nam
trong thời gian qua, tác giả muốn thông qua đó đƣa ra một số giải pháp vĩ mô và vi mô
nhằm hoàn thiện và phát triển các dịch vụ liên quan đến GNVTQT trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của nƣớc nhà.
- 4 -
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: là các dịch vụ trong hoạt động GNVTQT
tại Việt Nam, chủ yếu là trong vận tải đƣờng biển.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Một số dịch vụ GNVTQT trên thế giới nói
chung và thực trạng GNVTQT ở Việt Nam trong những năm vừa qua.
Về các dịch vụ, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu 5 dịch vụ chủ yếu đó là: Dịch
vụ khai thuê hải quan; dịch vụ đại lý vận tải; dịch vụ chuyên chở, kinh doanh cƣớc
vận tải; dịch vụ gom hàng; dịch vụ tổ chức vận tải đa phƣơntg thức.
Về nội dung của các dịch vụ, luận văn không đi sâu và khía cạnh nghiệp vụ của
các dịch vụ mà chỉ nghiên cứu các vấn đề về thị trƣờng hàng hoá, cơ sở vật chất kỹ
thuật, và các chi phí liên quan đến dịch vụ trong GNVTQT.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục đích và nhiệm vụ trên tôi đã viết nghiên cứu dựa trên cơ
sở phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê, thực hiện trao đổi, nhằm tìm ra những bất cập, khó khăn
của những ngƣời kinh doanh dịch vụ trong lĩnh vực GNVTQT, nghiên cứu lý luận kết
hợp với khảo sát, tìm hiểu tình hình thực tế.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn được bố cục gồm có 3 phần chính:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về giao nhận vận tải quốc tế và một số
dịch vụ trong giao nhận vận tải quốc tế.
Chƣơng 2: Thực trạng việc triển khai các dịch vụ trong giao nhận vận tải
quốc tế ở Việt Nam.
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển dịch vụ trong
giao nhận vận tải quốc tế ở Việt Nam.
Bài viết chỉ là những lý luận ban đầu, những ý kiến đóng góp cũng chỉ là ý kiến
bản thân ngƣời viết. Thêm nữa, do thời gian và trình độ có hạn nên bài viết chỉ đề cập
đến một số dịch vụ nổi bật nhất trong lĩnh vực GNVTQT, đặc biệt chỉ chú trọng đến
vận tải biển mà thôi. Chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết, còn nhiều điểm cần đƣợc bổ
sung, chỉnh sửa, do vậy ngƣời viết rất mong nhận đƣợc những góp ý của các thầy cô,
các bạn và các độc giả để có đƣợc một bài viết hoàn chỉnh hơn.
- 5 -
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ
VÀ MỘT SỐ DỊCH VỤ TRONG GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ
I/ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ.
1. Khái niệm, quá trình hình thành và phát triển của giao nhận vận tải quốc tế.
1.1. Những khái niệm chung về giao nhận vận tải quốc tế.
Đặc điểm nổi bật của buôn bán hàng hoá quốc tế là ngƣời mua và ngƣời bán
ở các nƣớc khác nhau. Sau khi hợp đồng mua bán đƣợc ký kết, ngƣời bán thực hiện
việc giao hàng, tức là hàng hoá đƣợc chuyển từ ngƣời bán sang ngƣời mua. Để cho
quá trình vận chuyển đó bắt đầu, tiếp tục và kết thúc đƣợc, tức là hàng hoá đến tay
ngƣời mua đƣợc, cần phải thực hiện một loạt các công việc khác nhau liên quan
đến quá trình chuyên chở nhƣ đóng gói, lƣu kho, đƣa hàng ra cảng, làm các thủ tục
gửi hàng, xếp hàng lên tàu, chuyển tải hàng hoá ở dọc đƣờng, dỡ hàng ra khỏi tàu
và giao cho ngƣời nhận... Những công việc đó đƣợc gọi là dịch vụ giao nhận.
Dịch vụ giao nhận vận tải (Freight Forwarding Service), theo “Quy tắc mẫu
của FIATA về dịch vụ giao nhận”, là bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan đến vận
chuyển, gom hàng, lƣu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hoá cũng nhƣ
các dịch vụ tƣ vấn hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả các vấn đề hải quan,
tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu nhập chứng từ liên quan đến hàng hoá.
Theo Luật Thƣơng mại Việt Nam thì Giao nhận hàng hoá là một hành vi
thƣơng mại, theo đó ngƣời cung cấp dịch vụ giao nhận vận tải nhận hàng từ ngƣời
gửi, tổ chức vận chuyển, lƣu kho, lƣu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ
khác có liên quan để giao hàng cho ngƣời nhận theo sự uỷ thác của chủ hàng, của
ngƣời vận tải hoặc của ngƣời giao nhận khác.
Ngƣời giao nhận vận tải là một cá nhân hay một tổ chức, một công ty đứng
ra thực hiện các công việc liên quan đến việc chuyên chở hàng hoá. Trong giao
nhận hàng hoá nội địa, việc chuyên chở này thƣờng bắt đầu từ nhà xƣởng của
ngƣời xuất khẩu đến nơi khai báo hải quan ở nƣớc của ngƣời xuất khẩu hoặc quy
trình ngƣợc lại với ngƣời nhập khẩu tại nƣớc của ngƣời nhập khẩu.
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận (FIATA):
“Ngƣời giao nhận (Fowarder, Freight Fowarder hay Forwading Agent) là ngƣời thu
xếp chuyên chở toàn bộ hàng hoá theo hợp đồng uỷ thác và hành động vì lợi ích của
ngƣời uỷ thác mà bản thân họ không phải là ngƣời chuyên chở. Ngƣời giao nhận cũng
- 6 -
đảm nhận thực hiện mọi công viêc liên quan đến hợp đồng giao nhận nhƣ đảm bảo
quản lƣu kho, chung chuyển, làm thủ tục hải quan kiểm hoá”. [9]
Do vậy, ngƣời kinh doanh dịch vụ GNVTQT là một cá nhân hay một tổ
chức, một công ty đứng ra thực hiện các công việc liên quan đến việc chuyên chở
hàng hoá từ nhà xƣởng hoặc từ cảng xuất hàng của ngƣời xuất khẩu đến cảng nhận
hàng hoặc đến nhà xƣởng của ngƣời nhập khẩu hoặc đến một địa điểm đƣợc quy
định trƣớc tại nƣớc của ngƣời nhập khẩu. Các công việc liên quan đến việc chuyên
chở hàng hoá này có thể là những việc nhƣ đàm phán cƣớc phí vận chuyển, thực
hiện việc vận chuyển, nhận và giao hàng hoá, đóng gói, bốc xếp, gom hàng, khai
báo hải quan, bảo hiểm hàng hoá, kiểm tra, kiểm định hàng hoá, chuẩn bị chứng từ
XNK, lƣu trữ, cất giữ và phân phối hàng hoá... và nhiều dịch vụ hỗ trợ khác nữa.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển các dịch vụ trong GNVTQT.
a. Quá trình hình thành các dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế
Khi nền kinh tế thế giới chƣa phát triển, khối lƣợng hàng hoá trao đổi còn nhỏ,
các nhà buôn tự lo liệu các khâu trong công việc kinh doanh của họ, tự tìm nguồn
hàng, chuyên chở hàng về nơi tiêu thụ đến khâu bán hàng thu hồi vốn. Lúc này chƣa
có những ngƣời kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải vì khối lƣợng hàng hoá chuyên
chở bằng đƣờng biển chƣa nhiều, sức chở của các con tàu còn nhỏ và kỹ thuật thông
tin liên lạc còn thấp kém, công việc giao nhận đƣợc thực hiện trực tiếp bởi ngƣời
XNK hoặc ngƣời chuyên chở.
Cách đây gần 500 năm, năm 1522, hãng giao nhận đầu tiên trên thế giới đã
xuất hiện ở Badiley (Thuỵ Sỹ) với tên gọi E. VANSAI. Hãng này kinh doanh cả vận
tải, giao nhận và thu phí giao nhận rất cao, khoảng 1/3 trị giá hàng hoá. Sau này,
nghiệp vụ giao nhận tách khỏi vận tải và buôn bán, dần đƣợc chuyên môn hoá do các
tổ chức, công ty giao nhận tiến hành.
Cùng với sự phát triển của thƣơng mại quốc tế, giao nhận vận tải ngày càng
phát triển, các công ty giao nhận cạnh tranh gay gắt với nhau dẫn đến sự ra đời các
Hiệp hội giao nhận trong hoàn cảnh một cảng, một thành phố cùng tồn tại nhiều công
ty giao nhận khác nhau. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty giao nhận dẫn đến sự
hình thành các Liên đoàn giao nhận trong phạm vi một khu vực, một nƣớc hay trên
phạm vi quốc tế. Ví dụ: Liên đoàn những ngƣời giao nhận Bỉ, Hà Lan, Mỹ... Các liên
đoàn ra đời nhằm hạn chế sự cạnh tranh giữa các hãng GNVTQT, bảo vệ quyền lợi
của các hãng giao nhận trƣớc ngƣời chuyên chở, ngƣời chủ hàng.
- 7 -
b. Phạm vi các dịch vụ trong hoạt động kinh doanh giao nhận vận tải quốc tế
Lúc đầu, ngƣời giao nhận thƣờng chỉ cung cấp dịch vụ đại lý (Agent). Đại lý là
một thƣơng nhân đƣợc một ngƣời khác (thƣờng gọi là ngƣời ủy thác - Principal) giao
cho làm một hoặc một số công việc nhất định và đƣợc hƣởng thù lao cho việc thực
hiện những công việc đó. Ngƣời giao nhận thực hiện một số công việc do các nhà
XNK uỷ thác nhƣ xếp dỡ, lƣu kho hàng hoá, làm thủ tục giấy tờ, lo liệu vận tải nội
địa, thủ tục thanh toán tiền hàng... và đƣợc hƣởng hoa hồng từ những công việc đó.
Hiện nay do sự mở rộng của thƣơng mại quốc tế và sự phát triển của các
phƣơng thức vận tải mà các dịch vụ trong GNVTQT cũng đƣợc mở rộng hơn rất
nhiều. Ngƣời giao nhận đóng một vai trò rất quan trọng trong thƣơng mại và vận tải
quốc tế. Ngƣời giao nhận không chỉ làm các dịch vụ về thủ tục hải quan, hoặc thuê tàu
mà còn cung cấp dịch vụ trọn gói toàn bộ quá trình vận tải và phân phối hàng hoá. [3]
Trừ phi bản thân ngƣời gửi hàng (hoặc ngƣời nhận hàng) muốn tham gia vào
bất kỳ khâu thủ tục, chứng từ nào đó, thông thƣờng ngƣời giao nhận thay mặt ngƣời
gửi hàng (hoặc ngƣời nhận hàng) lo liệu quá trình vận chuyển hàng hoá qua các cung
đoạn cho đến tay ngƣời nhận cuối cùng. Ngƣời giao nhận vận tải hàng hoá có thể làm
các dịch vụ trực tiếp hoặc thông qu