Trước tình hình kinh tế xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp, đan xen giữa khó khăn và thuận lợi, nguy cơ và thời cơ. Để tiến hành CNH - HĐH đất nước phải đẩy mạnh cách mạng công nghệ, phát huy tối đa mọi nguồn lực mà quan trọng nhất là vốn.
Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, có nước đã sử dụng nguồn vốn bên ngoài làm chủ lực, nguồn vốn trong nước làm bổ trợ cho sự phát triển, tận dụng được lợi thế chuyển giao công nghệ tiên tiến, rút ngắn thời gian bắt kịp với các nước phát triển. Có nước lại lựa chọn nguồn vốn nội địa làm chủ đạo, bằng cách này tốc độ phát triển thường chậm, nhưng hạn chế được sự phụ thuộc vào bên ngoài, tạo thế chủ động trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược, đảm bảo sự phát triển vững chắc của nền kinh tế xã hội trong lâu dài.
Nằm trên vòng cung kinh tế đang phát triển năng động nhất thế giới, Châu Á Thái Bình Dương, trong công cuộc đổi mới, Việt Nam còn vấp phải nhiều khó khăn, trở ngại. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu thốn, lạc hậu, trình độ đội ngũ cán bộ, lao động còn nhiều hạn chế, nền tảng cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh (vốn) còn thiếu rất nhiều. Đứng trước xu thế mở cửa hợp tác của thế giới, để vững bước tiến lên CNXH theo định hướng của Đảng, chúng ta phải biết nắm bắt thời cơ, đi tắt đón đầu, tận dụng khai thác mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Với chủ trương đề ra ở Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ 8 và được khẳng định lại ở Đại hội Đại Biểu toàn quốc lần 9: “Vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ bên ngoài”. Nhưng bằng cách nào để khơi thông, thu hút được nguồn lực trong điều kiện nền kinh tế cạnh tranh hiện nay. Câu hỏi được giải đáp bằng sự ra đời của các trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng thương mại. Với vai trò tập trung vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế vào mục đích cho vay, đầu tư đôi khi hoạt động ngân hàng còn làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn xã hội, cải biến dòng lưu chuyển và mục tiêu sử dụng vốn, góp phần giải quyết căn bản các mâu thuẫn về cung cầu tiền tệ.
Là một doanh nghiệp nhà nước đặc biệt NHNo & PTNT Hà Nội, một chi nhánh của NHNo & PTNT Việt Nam, cơ sở quan trọng về huy động vốn, vừa thực hiện chức năng kinh doanh vừa thực hiện vai trò thành viên đóng góp một phần vốn điều hoà cho cả hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp, đã đạt được một số thành công trong công tác huy động vốn để phát triển kinh tế đất nước nói chung và kinh tế thủ đô nói riêng. Tuy nhiên công tác này vẫn còn một số hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện. Để thực hiện tốt vai trò và chức năng của mình, việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để làm tốt hơn công tác huy động vốn tại ngân hàng trong thời gian tới là rất cần thiết.
Sau một thời gian thực tập tại NHNo & PTNT Hà Nội, rất quan tâm đến hoạt động huy động vốn, với phương châm “kinh doanh nguồn vốn huy động để nâng cao hoạt động kinh doanh” em xin chọn đề tài:
“Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”.
Luận văn được xây dựng trên cơ sở những kiến thức cơ bản về kinh tế học và nghiệp vụ ngân hàng, kết hợp với việc tìm hiểu thực tế và tham khảo một số tài liệu khác. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong giai đoạn 2000 – 2005.
Kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHNo & Phát triển Nông thôn Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Với thời lượng thực tập, kiến thức còn hạn chế, kinh nghiệm chưa có, nhìn nhận một vấn đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự bổ sung, đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài viết của mình được tốt hơn.
100 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2485 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thông Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trước tình hình kinh tế xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp, đan xen giữa khó khăn và thuận lợi, nguy cơ và thời cơ. Để tiến hành CNH - HĐH đất nước phải đẩy mạnh cách mạng công nghệ, phát huy tối đa mọi nguồn lực mà quan trọng nhất là vốn.
Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, có nước đã sử dụng nguồn vốn bên ngoài làm chủ lực, nguồn vốn trong nước làm bổ trợ cho sự phát triển, tận dụng được lợi thế chuyển giao công nghệ tiên tiến, rút ngắn thời gian bắt kịp với các nước phát triển. Có nước lại lựa chọn nguồn vốn nội địa làm chủ đạo, bằng cách này tốc độ phát triển thường chậm, nhưng hạn chế được sự phụ thuộc vào bên ngoài, tạo thế chủ động trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược, đảm bảo sự phát triển vững chắc của nền kinh tế xã hội trong lâu dài.
Nằm trên vòng cung kinh tế đang phát triển năng động nhất thế giới, Châu Á Thái Bình Dương, trong công cuộc đổi mới, Việt Nam còn vấp phải nhiều khó khăn, trở ngại. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu thốn, lạc hậu, trình độ đội ngũ cán bộ, lao động còn nhiều hạn chế, nền tảng cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh (vốn) còn thiếu rất nhiều. Đứng trước xu thế mở cửa hợp tác của thế giới, để vững bước tiến lên CNXH theo định hướng của Đảng, chúng ta phải biết nắm bắt thời cơ, đi tắt đón đầu, tận dụng khai thác mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Với chủ trương đề ra ở Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ 8 và được khẳng định lại ở Đại hội Đại Biểu toàn quốc lần 9: “Vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ bên ngoài”. Nhưng bằng cách nào để khơi thông, thu hút được nguồn lực trong điều kiện nền kinh tế cạnh tranh hiện nay. Câu hỏi được giải đáp bằng sự ra đời của các trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng thương mại. Với vai trò tập trung vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế vào mục đích cho vay, đầu tư…đôi khi hoạt động ngân hàng còn làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn xã hội, cải biến dòng lưu chuyển và mục tiêu sử dụng vốn, góp phần giải quyết căn bản các mâu thuẫn về cung cầu tiền tệ.
Là một doanh nghiệp nhà nước đặc biệt NHNo & PTNT Hà Nội, một chi nhánh của NHNo & PTNT Việt Nam, cơ sở quan trọng về huy động vốn, vừa thực hiện chức năng kinh doanh vừa thực hiện vai trò thành viên đóng góp một phần vốn điều hoà cho cả hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp, đã đạt được một số thành công trong công tác huy động vốn để phát triển kinh tế đất nước nói chung và kinh tế thủ đô nói riêng. Tuy nhiên công tác này vẫn còn một số hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện. Để thực hiện tốt vai trò và chức năng của mình, việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để làm tốt hơn công tác huy động vốn tại ngân hàng trong thời gian tới là rất cần thiết.
Sau một thời gian thực tập tại NHNo & PTNT Hà Nội, rất quan tâm đến hoạt động huy động vốn, với phương châm “kinh doanh nguồn vốn huy động để nâng cao hoạt động kinh doanh” em xin chọn đề tài:
“Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”.
Luận văn được xây dựng trên cơ sở những kiến thức cơ bản về kinh tế học và nghiệp vụ ngân hàng, kết hợp với việc tìm hiểu thực tế và tham khảo một số tài liệu khác. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong giai đoạn 2000 – 2005.
Kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHNo & Phát triển Nông thôn Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Với thời lượng thực tập, kiến thức còn hạn chế, kinh nghiệm chưa có, nhìn nhận một vấn đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự bổ sung, đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài viết của mình được tốt hơn.
Lời cảm ơn
Sau thời gian học tập và nghiên cứu dưới mái trường Kinh Tế Quốc Dân, và khoa Ngân hàng – Tài chính, được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô giáo, em đã có thêm nhiều hiểu biết về kinh tế xã hội. Đặc biệt sau thời gian thực tập tại Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Hà Nội, một chi nhánh hàng đầu của hệ thống Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển nông Thôn Việt Nam, được sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của đội ngũ cán bộ ngân hàng, nhất là các chú, các anh, các chị phòng Kế hoạch và phòng Kinh doanh, em đã có thêm những hiểu biết về thực tế hoạt động ngân hàng, nhất là hoạt động huy động vốn. Cùng với định hướng và sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS – TS Nguyễn Văn Nam, người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy giáo PGS – TS Nguyễn Văn Nam, cùng các cán bộ ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Hà Nội, trong đó có các chú, các anh chị phòng Kế Hoạch, đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Em xin gửi tất cả tình yêu thương nhất tới gia đình, bè bạn những người luôn bên cạnh động viên giúp đỡ em về mọi mặt trong quá trình học tập.
Sinh viên: Lương Thị Tâm, NH41ACHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại.
Ngày nay khi nói đến ngân hàng là ta nghĩ ngay đến vai trò trung gian tài chính, một huyết mạch lưu thông dòng máu tiền tệ, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội. Vì thế bất kể khi nào đề cập tới NHTM ta không thể bỏ qua lịch sử ra đời và phát triển của nó.
Tiền thân của nghiệp vụ ngân hàng hiện đại bắt đầu từ khi sản xuất hàng hoá phát triển, trao đổi và lưu thông hàng hoá được mở rộng, tiền tệ ra đời. Trong giai đoạn đầu này do mỗi vùng có một đồng tiền riêng nên khi giao lưu hàng hoá phát triển nhu cầu đổi tiền trở nên bức xúc, một số thương nhân đã đứng ra thực hiện việc đổi tiền đúc cho các nhà buôn, họ thường được gọi là các nhà kinh doanh tiền tệ. Việc sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển đã xuất hiện nhiều thương gia giàu có, họ có một lượng tiền dư thừa, muốn cất giữ ở một nơi an toàn, khi đó hoạt động nhận tiền gửi xuất hiện. Cùng với hoạt động này hoạt động chi trả hộ cũng hình thành do sự khác biệt về thời gian mua bán và thanh toán tiền hàng. Nắm trong tay một lượng tiền lớn, lợi dụng tính vô danh của tiền tệ các nhà kinh doanh tiền tệ đã sử dụng lượng tiền dư thừa này để cung cấp cho các nhà kinh doanh có nhu cầu và sẵn sàng trả một lượng phí nhất định, thế là hoạt động cho vay ra đời. Lúc này các nhà kinh doanh tiền tệ được gọi dưới tên nhà ngân hàng.
Như vậy hoạt động ngân hàng sơ khai đầu tiên chỉ bao gồm những nghiệp vụ cơ bản: đổi tiền, nhận tiền gửi, giữ hộ tiền, thanh toán và cho vay. Trong đó nghiệp vụ cho vay mang tính chất cho vay nặng lãi, vì thế thời kỳ này thường được gọi là ngân hàng cho vay nặng lãi.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá ngành ngân hàng cũng không ngừng hoàn thiện và phát triển. Quá trình này có thể chia ra làm 4 giai đoạn:
Trước thế kỷ 15: Là thời kỳ của “các ngân hàng vụ bản”. Trong thời kỳ này các nhà kinh doanh vàng bạc đã phát triển một số hoạt động như: đổi tiền, thanh toán hộ, giữ tiền hộ và cho vay, điều này chỉ thực hiện được với những thợ vàng có uy tín lớn.
Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18: Đây là giai đoạn của những ngân hàng cổ điển. Các ngân hàng thợ vàng phát triển cách mạng hoá thành các tổ chức kinh doanh tiền tệ. Các ngân hàng tồn tại dưới dạng riêng lẻ, độc lập, cùng tiến hành một hoạt động giống nhau như: đổi tiền, giữ hộ tiền, thanh toán, cho vay và đặc biệt cùng phát hành ra một loại giấy bạc của ngân hàng để cho vay. Trợ giúp thương nhân và hỗ trợ cho lưu thông.
Từ cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19: Nền sản xuất tại các quốc gia lớn đã đạt được những bước tiến vĩ đại, lưu thông hàng hoá được mở rộng đáng kể. Trong điều kiện đó việc tồn tại một số lượng lớn các loại tiền giấy khác nhau đã gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế. Do vậy chính phủ đã can thiệp thông qua đạo luật về hạn chế số lượng các ngân hàng phát hành. Các ngân hàng đã tồn tại với tư cách là một hệ thống có sự phân công lao động rõ ràng. Trong hệ thống đó đã tách ra một số ngân hàng phát hành, chuyên phát hành ra giấy bạc để cho vay. Đây là các ngân hàng lớn và chủ yếu là các ngân hàng tư nhân. Các ngân hàng còn lại nằm trong hệ thống các ngân hàng chuyên doanh, được phân công lao động xã hội sâu sắc vào các lĩnh vực cụ thể: các ngân hàng công nghiệp chuyên cho vay trung và dài hạn; các ngân hàng thương nghiệp cho vay vốn ngắn hạn; các ngân hàng địa ốc cho vay lĩnh vực bất động sản; ngân hàng để dành, chỉ huy động vốn của dân chúng sau đó cho vay hoặc mua chứng khoán; ngân hàng cầm cố cho vay bằng nghiệp vụ cầm cố (gần giống cửa hiệu cầm đồ).
Trong thời kỳ này ngân hàng thâm nhập sâu vào lĩnh vực sản xuất vật chất, các ngân hàng phát triển rực rỡ và trở thành lực lượng có thế lực vạn năng.
Từ cuối thế kỷ 19 đến nay: Cuộc khủng hoảng 1929- 1933 xảy ra do nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân chủ yếu là công tác quản lý trong lĩnh vực tài chính tiền tệ của chính phủ chưa chặt chẽ, các ngân hàng phát hành đa phần là các ngân hàng tư nhân đã hạn chế sự quản lý của chính phủ. Sau cuộc khủng hoảng này hầu hết các quốc gia đã tiến hành Quốc hữu hoá ngân hàng phát hành, NHTW ra đời thay thế cho ngân hàng phát hành giữ chức năng phát hành và quản lý lưu thông tiền tệ. Hoạt động dưới sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật. Hệ thống ngân hàng chuyển thành ngân hàng 2 cấp:
. NHTW
. Ngân hàng thương mại đa năng (thực hiện nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và dịch và dịch vụ ngân hàng).
Cùng với sự phát triển của thế giới, ngân hàng đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam là Ngân hàng Đông Dương do toàn quyền Pháp thành lập năm 1875 tại Sài Gòn. Sau khi Cách Mạng tháng 8 thành công năm 1946 nước ta tiến hành quốc hữu hoá ngân hàng Đông Dương.
Năm 1951 chủ tịch nước đã ký sắc lệnh số 15 thành lập ngân hàng Quốc gia, sau đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1954. Thời kỳ này Miền Bắc chỉ có Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa là NHTW vừa là NHTM, có chi nhánh tại các tỉnh và khu vực. Miền nam có một số ngân hàng: ngân hàng Phát triển Nông nghiệp, ngân hàng Phát triển Kỹ nghệ và một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Năm 1975 đất nước hoàn toàn giải phóng, các ngân hàng nước ngoài đã rút khỏi Việt Nam.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1988 hệ thống ngân hàng được chuyển từ 1 cấp thành 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước và Hệ thống các ngân hàng thương mại.
Từ năm 1988-1990 chủ yếu chỉ có 4 NHTM quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực của mình.
Đến nay trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Theo hướng này nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra tiền đề cần thiết đòi hỏi sự ra đời nhiều loại hình ngân hàng và tổ chức tín dụng, tạo ra một môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng và gay gắt hơn.
Là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị trường, một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội, ngân hàng không thể đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia nào. Vì vậy mỗi nước đều xây dựng cho mình những khung pháp lý giới hạn hoạt động của ngân hàng. Mỗi nước có một khái niệm khác nhau về ngân hàng :
Theo luật ngân hàng Ấn Độ năm 1959 bổ xung: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay, tài trợ, đầu tư ...”
Theo pháp luật Mỹ: “Bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi, cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là ngân hàng”.
Tựu chung lại tất cả đều có điểm chung là tổ chức nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, sử dụng cho vay chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh khác.
Việt Nam, pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 quy định: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay hay thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam quy định: “NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh có liên quan”. Trong đó “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
NHTM thực hiện 3 chức năng cơ bản:
-Thủ quỹ của các doanh nghiệp.
-Tạo tiền.
-Trung gian tài chính.
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại từ khi bắt đầu hình thành mới chỉ thực hiện chức năng giữ tiền hộ khách hàng, nhưng đến nay do tình hình kinh tế chính trị thay đổi, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, hoạt động ngân hàng không ngừng cải tiến và phát triển ở trình độ cao hơn song ngân hàng vẫn thực hiện ba chức năng cơ bản: ngân hàng thương mại là thủ quỹ của các doanh nghiệp, chức năng tạo tiền và làm trung gian tài chính. Trên cơ sở đó ngân hàng thực hiện 3 nghiệp vụ cơ bản sau:
1.1.2.1. Nghiệp vụ huy động vốn:
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên và quan trọng nhất của một ngân hàng. Để tạo nguồn vốn cho mình các ngân hàng thực hiện các hoạt động huy động vốn sau:
Vốn chủ sở hữu: Nguồn này được hình thành từ nguồn đóng góp của các cổ đông và các quỹ của ngân hàng hình thành trong quá trình kinh doanh thể hiện dưới hình thức lợi nhuận để lại.
Nghiệp vụ huy động tiền gửi: Phản ánh các khoản tiền ngân hàng huy động từ các khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế nhằm mục đích thanh toán, hưởng lãi, khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ gia đình gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
Nghiệp vụ đi vay: Phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng cách vay của các tổ chức tín dụng, vay trên thị trường tệ và vay Ngân hàng Trung Ương (NHTW) dưới các hình thức tái chiết khấu, vay có bảo đảm ...mục đích tạo sự cân đối trong điều hành vốn của NHTM khi họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.
Nghiệp vụ huy động bằng cách phát hành giấy tờ có giá: Ngân hàng sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính chất dài hạn đối với ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn giúp NHTM tăng cường tính ổn định của đồng vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Nghiệp vụ huy động vốn khác: NHTM có thể tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn:
Ngân hàng là một tổ chức tài chính “đi vay để cho vay”. Do vậy mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng sau khi đã huy động được một lượng vốn là làm sao sử dụng nguồn vốn để đạt được hiệu quả cao nhất mà không bị rơi vào tình trạng kẹt vốn. Vì thế ngân hàng phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình, bằng các hoạt động:
Dự trữ: Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng. NHTM phải duy trì một lượng vốn bằng tiền mặt thực hiện nghĩa vụ dự trữ, mức dự trữ này tuỳ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc (do nhà nước quy định) và tỷ lệ dự trữ vượt quá mà ngân hàng giữ lại để đảm bảo khả năng chi trả cũng như thực hiện hoạt động khác của mình.
Cho vay: Theo quy định “Cho vay là hình thức tín dụng mà trong đó ngân hàng ký hợp đồng với người đi vay, cam kết cho người đó vay một khoản tiền trong một khoảng thời gian nhất định, khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi tại thời điểm đáo hạn của khoản cho vay”.
Đây là nghiệp vụ chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Theo thống kê, nhìn chung khoảng 65 - 70% thu nhập của ngân hàng từ hoạt động cho vay. Thành công hay thất bại phụ thuộc vào chính sách cho vay của ngân hàng. Đây cũng là hoạt động mang nhiều rủi ro và phức tạp nhất .
Nếu phân chia:
-Theo mục đích: có cho vay bất động sản, cho vay thương mại, cho vay cá nhân, cho vay thuê mua và cho vay khác.
-Theo kỳ hạn: có cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
-Theo hình thức bảo đảm:
+ Cho vay có bảo đảm (cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố, có bảo lãnh của người thứ 3).
+ Cho vay không có bảo đảm: cho vay dựa trên uy tín của bản thân khách hàng.
-Theo phương thức hoàn trả: cho vay trả góp, cho vay phi trả góp, hoàn trả theo thoả thuận, cho vay hoàn trả theo yêu cầu (khách hàng có thể hoàn trả bất kỳ lúc nào khi có thu nhập trong thời hạn).
Đầu tư: Ngoài nghiệp vụ cho vay ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình thức đầu tư chủ yếu:
Đầu tư chứng khoán: Ngân hàng mua chứng khoán vì mục đích thanh khoản và đa dạng hoá hoạt động, nâng cao lợi tức và phục vụ như các vật ký quỹ cho các tài sản nợ khác. Nghiệp vụ này mang lại lợi nhuận khá lớn cho ngân hàng sau cho vay nhưng cũng hàm chứa rất nhiều rủi ro. Tuỳ luật pháp mỗi quốc gia mà việc tham gia vào thị trường chứng khoán của các ngân hàng ở mức khác nhau, song ngân hàng phải luôn xem xét kỹ lưỡng trước khi lựa chọn danh mục và cơ cấu chứng khoán để đầu tư. Thường ngân hàng hay chú ý vào trái phiếu Chính phủ và trái phiếu công ty (chứng khoán có độ rủi ro thấp).
Đầu tư khác: Bên cạnh đầu tư vào chứng khoán, nguồn vốn của ngân hàng còn được sử dụng để đầu tư vào các mục đích sinh lời khác như: góp vốn liên doanh, hùn vốn, ký thác…
1.1.2.3. Câc nghiệp vụ trung gian:
Nền kinh tế ngày càng phát triển, các dịch vụ của ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của công chúng, ngân hàng thực hiện nghiệp vụ trung gian và nhận thu nhập từ nguồn phí hoặc hoa hồng.
Các hoạt động trung gian phản ánh mức độ phát triển của ngân hàng. Ở các nước phát triển ngân hàng thương mại thực hiện rất nhiều hoạt động trung gian, tức là luôn có dịch vụ cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Thu nhập từ các hoạt động trung gian chiếm khoảng 30% đến 35% tổng thu nhập của ngân hàng. Nghiệp vụ trung gian phát triển còn giúp ngân hàng tránh được rủi ro, ngân hàng sẽ được hoạt động ở vùng an toàn.
Ở Việt Nam các nghiệp vụ trung gian còn nghèo nàn, chưa phong phú, đa dạng, chưa tạo ra tiện ích cho khách hàng. Vì thế cần phải phát triển các dịch vụ ngân hàng để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế xã hội đất nước.
Ngân hàng thực hiện một số nghiệp vụ trung gian sau: Dịch vụ chuyển tiền, chuyển khoản, thanh toán hộ, phát hành séc, bảo lãnh cho khách hàng, thu chi hộ, quản lý tài sản hộ, mua bán hộ, các dịch vụ uỷ thác với các cá nhân và tổ chức, doanh nghiệp.
Bên cạnh đó NHTM còn có các hoạt động ngoại bảng chưa được coi là tài sản hay nguồn vốn như: bảo lãnh công nợ, hoạt động liên quan đến lãi suất (SWAP lãi suất), các giao dịch về hối đoái như SWAP, OPTION, FUTURE các chứng từ có giá. Là một nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh, nó có tác động mạnh mẽ tới độ an toàn của NHTM. Vì vậy khi phân tích hoạt động của NHTM các nhà quản trị cần phải quan tâm tới hoạt động này.
1.1.3. Vai trò của NHTM.
Khi nói về vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị thị trường nhiều nhà kinh tế học đã ví NHTM là trái tim của nền kinh tế. Từ hoạt động của mình ngân hàng thu hút vốn nhàn rỗi rồi cung cấp nguồn vốn đó cho nền kinh tế, làm cho huyết mạch lưu thông tiền tệ được thông suốt, đồng thời thực hiện tốt 3 chức năng của mình.
1.1.3.1. Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế:
Trong nền kinh tế vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và nhà nước. Để có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, điều đó đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô cả về chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Song khi đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần phải có vốn. Ngân hàng từ hoạt động của mình huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ đặc biệt là tín dụng, ngân hàng chuyển vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế, giải quyết sự thiếu vốn và thừa vốn trong nền kinh tế giúp các doanh nghiệp có điều kiện sản xuất kinh doanh