Cùng với đầu tưtrực tiếp nước ngoài, hỗtrợphát triển chính thức (ODA)
hiện nay là nguồn tài chính rất quan trọng đối với Việt Nam trong sựnghiệp
phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với
khoản ODA trịgiá 17,5 tỷUSD mà các nhà tài trợcam kết dành cho Việt
Nam và 41% trong số đó đã được giải ngân trong 8 năm qua, ODA đã khẳng
định vai trò của nó đối với nền kinh tếViệt Nam. Nguồn ngoại tệnày đóng
góp một phần quan trọng đểkhắc phục tình trạng thiếu vốn và cơsởhạtầng,
khoa học kỹthuật thấp kém ởnước ta.
Bên cạnh đó, sựgia tăng của nguồn vốn ODA còn giúp Chính phủViệt
Nam trong việc giải quyết những vấn đềxã hội bức xúc, đặc biệt là trong lĩnh
vực y tếvà giáo dục cơbản.
Trong quá trình thu hút và sửdụng nguồn vốn ODA thời gian qua, mức
giải ngân thấp luôn luôn là chủ đềthảo luận với nhiều nhà tài trợsong phương
và đa phương nhằm tìm ra những nguyên nhân và giải pháp đểkhắc phục.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có sựtiến bộ đáng kểmà còn xuất hiện xu
hướng tốc độgiải ngân chậm lại trong thời gian gần đây. Giải ngân thấp thể
hiện sựkhông hiệu quảtrong việc sửdụng nguồn vốn ODA và là một sựlãng
phí lớn, trong điều kiện nhu cầu vềvốn cho phát triển kinh tếcòn rất lớn như
hiện nay.
Vì những lý do trên, tôi đã chọn đềtài "Những giải pháp nhằm đẩy
nhanh tiến độgiải ngân nguồn vốn hỗtrợphát triển chính thức (ODA)
tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005 " làm đềtài nghiên cứu cho bài Luận văn
tốt nghiệp của mình. Mục tiêu của đềtài là trên cơsởkhái quát những vấn đề
lý luận vềODA, phân tích thực trạng giải ngân ODA ởViệt Nam trong những
năm qua đểtìm ra những tồn tại, nguyên nhân và đềxuất các giải pháp nhằm
thúc đẩy tốc độgiải ngân ODA, nâng cao hiệu quảsửdụng nguồn vốn này.
73 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1920 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp :"Những giải pháp nhằm
đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam giai
đoạn 2001-2005"
Chuyên đề tốt nghiệp
1
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với đầu tư trực tiếp nước ngoài, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
hiện nay là nguồn tài chính rất quan trọng đối với Việt Nam trong sự nghiệp
phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với
khoản ODA trị giá 17,5 tỷ USD mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt
Nam và 41% trong số đó đã được giải ngân trong 8 năm qua, ODA đã khẳng
định vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam. Nguồn ngoại tệ này đóng
góp một phần quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn và cơ sở hạ tầng,
khoa học kỹ thuật thấp kém ở nước ta.
Bên cạnh đó, sự gia tăng của nguồn vốn ODA còn giúp Chính phủ Việt
Nam trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đặc biệt là trong lĩnh
vực y tế và giáo dục cơ bản.
Trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA thời gian qua, mức
giải ngân thấp luôn luôn là chủ đề thảo luận với nhiều nhà tài trợ song phương
và đa phương nhằm tìm ra những nguyên nhân và giải pháp để khắc phục.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có sự tiến bộ đáng kể mà còn xuất hiện xu
hướng tốc độ giải ngân chậm lại trong thời gian gần đây. Giải ngân thấp thể
hiện sự không hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn ODA và là một sự lãng
phí lớn, trong điều kiện nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế còn rất lớn như
hiện nay.
Vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài "Những giải pháp nhằm đẩy
nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005 " làm đề tài nghiên cứu cho bài Luận văn
tốt nghiệp của mình. Mục tiêu của đề tài là trên cơ sở khái quát những vấn đề
lý luận về ODA, phân tích thực trạng giải ngân ODA ở Việt Nam trong những
năm qua để tìm ra những tồn tại, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm
thúc đẩy tốc độ giải ngân ODA, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.
Chuyên đề tốt nghiệp
2
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, bài Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
này được bố cục như sau:
Chương I : Cơ sở lý luận chung về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) và giải ngân vốn ODA.
Chương II : Đánh giá tổng quan về tình hình giải ngân nguồn vốn ODA
tại Việt Nam giai đoạn 1993-1999.
Chương III : Những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân ODA
giai đoạn 2001-2005.
CHƯƠNG I
Chuyên đề tốt nghiệp
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN
HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)
I-NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ODA
1-Khái niệm và đặc điểm của ODA
1.1-Khái niệm
ODA là tên gọi tắt của ba từ tiếng Anh Official Development Assistance
có nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển
chính thức.
Năm 1972, tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra định nghĩa
như sau: "ODA là một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài
chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn
lại chiếm ít nhất 25%".
Tại Điều I Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức ban hành ngày 5-8-1977 có nêu khái niệm về ODA như sau :" Hỗ trợ
phát triển chính thức được hiểu là sự hợp tác phát triển giữa nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hay nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, bao
gồm các hình thức sau:
1) Hỗ trợ cán cân thanh toán.
2) Hỗ trợ theo chương trình.
3) Hỗ trợ kỹ thuật.
4) Hỗ trợ theo dự án.
ODA bao gồm ODA không hoàn lại và ODA cho vay ưu đãi có yếu tố
không hoàn lại chiếm ít nhất 25% giá trị khoản vay.
Hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại ,
viện trợ có hoàn lại, hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức
thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các
nước đang và chậm phát triển.
Chuyên đề tốt nghiệp
4
Nguồn vốn đưa vào các nước đang và chậm phát triển được thực hiện
qua nhiều hình thức:
-Tài trợ phát triển chính thức ( Official Development Finance - ODF ) là
nguồn tài trợ chính thức của chính phủ cho mục tiêu phát triển. Nguồn vốn
này bao gồm ODA và các hình thức ODF khác, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu
trong nguồn ODF.
-Tín dụng thương mại từ các ngân hàng ( Commercial Credit by Bank )
là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu, thương
mại...
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Invesment - FDI ) là loại
hình kinh doanh mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn tự thiết lập cơ sở sản xuất,
kinh doanh cho riêng mình, tự đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê
người quản lý (đầu tư 100% vốn ), hoặc góp vốn với một hay nhiều xí nghiệp
của nước sở tại thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh, rồi cùng các đối tác của
mình làm chủ sở hữu và cùng quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này ( xí
nghiệp liên doanh ).
-Viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ ( Nongovernment
Organisation - NGO ).
-Tín dụng tư nhân: loại vốn này có ưu điểm là hầu như không gắn với
các ràng buộc chính trị - xã hội, song các điều kiện cho vay khắt khe ( thời
hạn hoàn trả vốn ngắn và mức lãi suất cao), vốn được sử dụng chủ yếu cho
các hoạt động xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Vốn này cũng được
dùng cho đầu tư phát triển và mang tính dài hạn. Tỷ trọng của vốn dài hạn
trong tổng số có thể tăng lên đáng kể nếu triển vọng tăng trưởng lâu dài, đặc
biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là khả quan.
Các dòng vốn quốc tế này có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nếu
một nước kém phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để hện
đại hoá các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, thì cũng khó có thể thu hút được
Chuyên đề tốt nghiệp
5
các nguồn vốn FDI, cũng như vay vốn tín dụng khác để mở rộng kinh doanh.
Nhưng nếu chỉ tìm kiếm các nguồn vốn ODA, mà không tìm cách thu hút các
nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác thì chính phủ sẽ không có đủ
thu nhập để trả nợ cho các loại vốn ODA.
1.2-Đặc điểm của nguồn vốn ODA:
-ODA là một giao dịch quốc tế, thể hiện ở chỗ hai bên tham gia giao
dịch này không có cùng quốc tịch. Bên cung cấp thường là các nước phát
triển hay các tổ chức phi chính phủ. Bên tiếp nhận thường là các nước đang
phát triển hay các nước gặp khó khăn về nguồn lực trong việc giải quyết các
vấn đề xã hội, kinh tế hay môi trường.
-ODA thường được thực hiện qua hai kênh giao dịch là kênh song
phương và kênh đa phương. Kênh song phương, quốc gia tài trợ cung cấp
ODA trực tiếp cho chính phủ quốc gia được tài trợ. Kênh đa phương , các tổ
chức quốc tế hoạt động nhờ các khoản đóng góp của nhiều nước thành viên
cung cấp ODA cho quốc gia được viện trợ. Đối với các nước thành viên thì
đây là cách cung cấp ODA gián tiếp.
-ODA là một giao dịch chính thức. Tính chính thức của nó được thể hiện ở
chỗ giá trị của nguồn ODA là bao nhiêu, mục đích sử dụng là gì phải được sự
chấp thuận và phê chuẩn của chính phủ quốc gia tiếp nhận. Sự đồng ý tiếp nhận
đó được thể hiện bằng văn bản, hiệp định, điều ước quốc tế ký kết với nhà tài trợ.
-ODA được cung cấp với mục đích rõ ràng. Mục đích của việc cung cấp
ODA là nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của các nước nghèo. Đôi
lúc ODA cũng được sử dụng để hỗ trợ các nước gặp hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh...Do đó, có lúc các nước
phát triển cũng được nhận ODA. Nhưng không phải lúc nào mục đích này
cũng được đặt lên hàng đầu, nhiều khi các nhà tài trợ thường áp đặt điều kiện
của mình nhằm thực hiện những toan tính khác.
-ODA có thể được các nhà tài trợ cung cấp dưới dạng tài chính, cũng có
Chuyên đề tốt nghiệp
6
khi là hiện vật. Hiện nay, ODA có ba hình thức cơ bản là viện trợ không hoàn
lại (Ggant Aid), vốn vay ưu đãi ( Loans Aid ) và hình thức hỗn hợp.
2-Phân loại ODA
2.1-Phân loại theo tính chất
-ODA không hoàn lại : Đây là nguồn vốn ODA mà nhà tài trợ cấp cho
các nước nghèo không đòi hỏi phải trả lại. Cũng có một số nước khác được
nhận loại ODA này khi gặp phải các vấn đề nghiêm trọng như thiên tai, dịch
bệnh...
Đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn này thường được cấp dưới
dạng các dự án hỗ trợ kỹ thuật, các chương trình xã hội hoặc hỗ trợ cho công tác
chuẩn bị dự án. ODA không hoàn lại thường là các khoản tiền nhưng cũng có
khi là hàng hoá, ví dụ như lương thực, thuốc men hay một số đồ dùng thiết yếu.
ODA không hoàn lại thường ưu tiên và cung cấp thường xuyên cho lĩnh
vực giáo dục, y tế. Các nước Châu Âu hiện nay dành một phần khá lớn ODA
không hoàn lại cho vấn đề bảo vệ môi trường, đặc biệt là bảo vệ rừng và các
loài thú quý.
-ODA vốn vay ưu đãi : đây là khoản tài chính mà chính phủ nước nhận
phải trả nước cho vay, chỉ có điều đây là khoản vay ưu đãi. Tính ưu đãi của
nó được thể hiện ở mức lãi suất thấp hơn lãi suất thương mại vào thời điểm
cho vay, thời gian vay kéo dài, có thể có thời gian ân hạn. Trong thời gian ân
hạn, nhà tài trợ không tính lãi hoặc nước đi vay được tính một mức lãi suất
đặc biệt. Loại ODA này thường được nước tiếp nhận đầu tư vào các dự án cơ
sở hạ tầng xã hội như xây dựng đường xá, cầu cảng, nhà máy...Muốn được
nhà tài trợ đồng ý cung cấp, nước sở tại phải đệ trình các văn bản dự án lên
các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ nước tài trợ. Sau khi xem xét khả
thi và tính hiệu quả của dự án, cơ quan này sẽ đệ trình lên chính phủ để phê
duyệt. Loại ODA này chiếm phần lớn khối lượng ODA trên thế giới hiện nay.
-Hình thức hỗn hợp : ODA theo hình thức này bao gồm một phần là
Chuyên đề tốt nghiệp
7
ODA không hoàn lại và một phần là ODA vốn vay ưu đãi. Đây là loại ODA
được áp dụng phổ biến trong thời gian gần đây. Loại ODA này được áp dụng
nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.
2.2-Phân loại theo mục đích:
-Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và môi trường. đây thường là những khoản cho
vay ưu đãi.
-Hỗ trợ kỹ thuật : là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức,
công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu
tiền đầu tư phát triển thể chế và nguồn nhân lực...Loại hỗ trợ này chủ yếu là
viện trợ không hoàn lại.
2.3-Phân loại theo điều kiện :
-ODA không ràng buộc : Là việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng
buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
-ODA có ràng buộc :
+Ràng buộc bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là nguồn ODA được cung cấp
dành để mua sắm hàng hoá, trang thiết bị hay dịch vụ chỉ giới hạn cho một số
công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát ( đối với viện trợ song phương
), hoặc công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).
+Ràng buộc bởi mục đích sử dụng: Nghĩa là nước nhận viện trợ chỉ được
cung cấp nguồn vốn ODA với điều kiện là phải sử dụng nguồn vốn này cho
những lĩnh vực nhất định hay những dự án cụ thể.
-ODA ràng buộc một phần: Nước nhận viện trợ phải dành một phần
ODA chi ở nước viện trợ (như mua sắm hàng hoá hay sử dụng các dịch vụ
của nước cung cấp ODA), phần còn lại có thể chi ở bất cứ đâu.
2.4-Phân loại theo hình thức:
-Hỗ trợ dự án: Đây là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án
cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không
Chuyên đề tốt nghiệp
8
hoặc cho vay ưu đãi.
-Hỗ trợ phi dự án: Là loại ODA được nhà tài trợ cung cấp trên cơ sở tự nguyện.
Nhận thức về các vấn đề bức xúc ở nước sở tại, nhà tài trợ yêu cầu chính
phủ nước sở tại được viện trợ nhằm tháo gỡ những khó khăn đó. Khi được
chính phủ chấp thuận thì việc viện trợ được tiến hành theo đúng thoả thuận
của hai bên. Loại ODA này thường được cung cấp kèm theo những đòi hỏi từ
phía chính phủ nước tài trợ. Do đó, chính phủ nước này phải cân nhắc kỹ các
đòi hỏi từ phía nhà tài trợ xem có thoả đáng hay không. Nếu không thoả đáng
thì phải tiến hành đàm phán nhằm dung hoà điều kiện của cả hai phía. Loại
ODA này thường có mức không hoàn lại khá cáo, bao gồm các loại hình sau:
+Hỗ trợ cán cân thanh toán: Trong đó thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp
(chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hay hỗ trợ xuất nhập khẩu. Ngoại
tệ hoặc hàng hoá được chuyển vào qua hình thức này có thể được sử dụng để
hỗ trợ cho ngân sách.
+Hỗ trợ trả nợ: Nguồn ODA cung cấp dùng để thanh toán những món nợ
mà nước nhận viện trợ đang phải gánh chịu.
+Viện trợ chương trình: Là khoản ODA dành cho một mục đích tổng
quát với thời gian xác định mà không phải xác định chính xác nó sẽ được sử
dụng như thế nào.
3-Nguồn gốc lịch sử của ODA
Sau Đại chiến thế giới lần thứ II, nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng
khủng hoảng nghiêm trọng. Nhiều nước tham chiến bị thiệt hại nặng nề về cả
người và của. Với mục đích vực dậy nền kinh tế thế giới, nhiều tổ chức tài
chính quốc tế đã được thành lập vào thời kỳ này. Một trong những kế hoạch
tái thiết kinh tế lúc đó là kế hoạch Marshall, tiền thân của hình thức hỗ trợ
phát triển chính thức sau này, có mục đích là hỗ trợ các nước châu Âu khôi
phục lại nền kinh tế đã bị chiến tranh tàn phá. Ngày 14-12-1960, tại Paris, Tổ
chức hợp tác kinh tế châu Âu (OEEC ), tiền thân của tổ chức Hợp tác Kinh tế
và Phát triển (OECD) được thành lập để thực hiện kế hoạch Marshall. Các
Chuyên đề tốt nghiệp
9
nước tham dự hội nghị Paris đã thống nhất mục tiêu của Tổ chức hợp tác kinh
tế châu Âu gồm:
-Cải thiện mức sống và điều kiện lao động của các nước thành viên.
-Đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững, duy trì sự ổn định
về tài chính.
-Hỗ trợ các nước khác đặc biệt là các nước thành viên và các nước chịu
sự tàn phá nặng nề sau chiến tranh trong quá trình phát triển kinh tế.
-Tăng cường phát triển thương mại quốc tế dựa trên cơ sở đa phương.Tổ
chức này ban đầu có 19 thành viên gồm có Áo, Bỉ, Canađa, Đan Mạch, Pháp,
Đức, Hy Lạp, Aixơlen, Ý , Lucxămbua, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy
Sỹ, Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ. Các nước gia nhập thêm sau đó là
Nhật Bản (năm 1964), Phần Lan (năm 1969), Ôxtrâylia (năm 1971), Niuzilân
(năm1973) và Mêhicô (năm 1994).
OECD thành lập nhiều uỷ ban để phân chia quyền hạn và nhiệm vụ trong
hoạt động của mình. Một trong số đó là Ủy ban hỗ trợ phát triển (DAC). Đây
là ủy ban chuyên cung cấp ODA dạng tài chính cho các nước đang phát triển.
Thành viên của ủy ban này gồm có Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Đức, Hà Lan,
Vương Quốc Anh, Canađa, Thụy Điển, Đan Mạch, Ý, Na Uy, Ôxtrâylia,
Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Bỉ, Áo, Phần Lan, Bồ Đào Nha, Ailen, Niuzilân,
Luxcămbua và Ủy ban châu Âu.
Ban đầu, OECD chỉ tập trung viện trợ cho các nước tham chiến trong
chiến tranh thế giới thứ II và các nước bị chiến tranh tàn phá. Sau khi kinh tế
các nước này đã được phục hồi, việc viện trợ được mở rộng ra các quốc gia
khác với mục đích thúc đẩy sự phát triển kinh tế trên toàn thế giới.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, các nước đang phát triển thuộc phe Xã
hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam hầu như không nhận được sự viện trợ
trực tiếp từ các nước thuộc DAC mà chỉ nhận gián tiếp thông qua các tổ chức
phi chính phủ và Liên Hợp Quốc. Việt Nam trong nhiều năm liền chủ yếu
Chuyên đề tốt nghiệp
10
nhận viện trợ từ Liên Xô và các nước Đông Âu. Thời kỳ này việc cung cấp
ODA chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu tố chính trị.
Sau khi Liên Xô và hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, các
nước Xã hội chủ nghĩa khác đã phải tiến hành cải cách chính trị cho phù hợp
với tình hình mới, các nước tư bản đã nối lại viện trợ cho Việt Nam, Trung
Quốc và Cuba. Nhìn chung hiện nay, vấn đề chính trị không còn ảnh hưởng nhiều
tới việc cung cấp ODA nữa. Nhờ những cải cách mang tính chất tích cực, nước ta
nhận được sự ủng hộ ngày càng lớn của cộng đồng các nhà tài trợ.
Trong những năm qua, hoạt động của viện trợ chính thức đã góp nhiều
công sức cho việc phát triển kinh tế toàn thế giới và giảm khoảng cách giàu
nghèo giữa các quốc gia. Một số nước đã vươn lên từ đói nghèo và lạc hậu
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mêhicô... đã chứng minh cho những thành công
của ODA trên thế giới. Bên cạnh đó, ODA trong những năm qua còn bộc lộ
nhiều khiếm khuyết. Tuy vậy nó vẫn đóng vai trò quan trọng trong con đường
phát triển của toàn nhân loại.
4- Vai trò của ODA đối với các nước đang phát triển:
Trong mỗi xã hội luôn tồn tại sự hoạt động của các ngành, các lĩnh vực
không sinh lợi. Chẳng hạn như trong lĩnh vực môi trường, các công nhân thu
dọn vệ sinh có thể bị coi là "ăn bám" xã hội bởi lẽ công việc của họ chẳng làm
ra một đồng của cải nào cho xã hội cả. Thế nhưng chỉ thiếu họ một tuần hay
một ngày thôi thì mùi xú uế sẽ bốc lên nồng nặc cả thành phố. Có hay không
tồn tại của một công viên cây xanh cũng chẳng phải là vấn đề sống còn của
bất cứ ai, nhưng nếu không có nó thì mọi người sẽ không có chỗ nghỉ ngơi,
giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng. Đây là những lĩnh vực mà tư nhân
hầu như không quan tâm đầu tư mặc dù nó giữ vai trò thiết yếu đối với bất kỳ
xã hội hiện đại nào ngày nay. Bởi vì lĩnh vực này không sinh lời, nếu có thì
cũng cần thời gian thu hồi vốn lâu. Hãy thử tưởng tượng một thành phố không
có bóng dáng công nhân quét rác hay một công viên cây xanh thì điều gì sẽ
Chuyên đề tốt nghiệp
11
xảy ra. Chắc chắn, người ta sẽ không chịu nổi sự ô nhiễm môi trường nặng nề
mà chính họ là nguyên nhân gây ra.
Môi trường không sinh lợi đã đành, ngay cả những lĩnh vực có sinh lợi
nhưng hiệu quả kinh tế chậm như giao thông, thuỷ lợi, điện, nước... cũng
chẳng có cá nhân nào dám bỏ tiền ra để xây dựng. Vì nó đòi hỏi vốn lớn và
thời gian thu hồi chậm. Do đó các công trình cộng cộng thường phải do Nhà
nước đầu tư thực hiện.
Thế nhưng, Chính phủ các nước đang phát triển lại gặp rất nhiều khó
khăn trong việc đầu tư vào các lĩnh vực công cộng. Đây hầu hết là các nước
nghèo, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Do đó, có rất ít vốn tích lũy
cho đầu tư phát triển. Dân nghèo thì số tiền thu ngân sách cũng không được là
bao, không đủ để xây dựng các công trình công cộng, hạ tầng kỹ thuật. Các
quốc gia đang phát triển hầu hết đều đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp, cơ
sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu. Vì vậy vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng để đáp
ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang trở lên hết sức cấp
bách.
Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới đang là điều kiện bắt buộc các
nước đang phát triển phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả, tính cạnh tranh của
nền kinh tế và vấn đề thiếu vốn đang là trở ngại lớn nhất trên con đường tìm
kiếm sự phát triển của các nước này. Hàng năm, với tinh thần nhân đạo cao
cả, các nước phát triển đã cung cấp một khối lượng ODA đáng kể trị giá hàng
trăm tỷ USD cho các quốc gia đang phát triển. khối lượng ODA đó có vai trò
rất quan trọng đối với các nước này, nó cho phép họ có một khoản tiền để giải
quyết một số vấn đề cấp thiết, và đầu tư vào hạ tầng cơ sở, các công trình
công cộng.
Có thể nói, một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt sẽ là nền tảng cho sự phát
triển của một đất nước. Tuy nhiên, hầu hết các nước đang phát triển có hệ
thống cơ sở hạ tầng lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu cho phát triển kinh
Chuyên đề tốt nghiệp
12
tế. Hiện nay, xu hướng chung của các nước đang phát triển là tìm cách thu hút
nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI và ODA), bổ sung cho nguồn vốn eo hẹp
trong nước. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), có ưu điểm là khối
lượng vốn đầu tư lớn và nước tiếp nhận không phải chịu gánh nặng nợ nần.
Nhưng nếu muốn thu hút được nhiều nguồn vốn FDI thì đòi hỏi các nước
đang phát triển phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt, một môi trường kinh
doanh thuận lợi. Đây là những yếu tố mà các nước đang phát triển còn thiếu.
Nếu chỉ thu hút riêng vốn FDI thì không đủ nhu cầu ngày càng cao về vốn
cho phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, phải thu hút nguồn vốn ODA để bổ
sung nhu cầu về vốn