Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, vấn đề bảo vệ môi
trường đã trở thanh nhiệm vụ cấp bách không chỉ đối với Việt Nam mà
của toàn thế giới bởi sự suy thoái cũng như sự suy giảm chất lượng môi
trường đáng báo động trong thời gian gần đây. Nhận thức được những
biến đổi ngày càng nghiêm trọng do ô nhiễm môi trường và tầm quan
trọng của việc bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến
vấn đề bảo vệ môi trường trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội hướng
đến sự phát triển bền vững. Trong đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật về môi trường là một hoạt động rất cần thiết, thiết lập
công cụ quan trọng để quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về môi
trường như Luật bảo vệ môi trường năm 2005, Luật bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004, Luật thủy sản năm 2003
Trước tình hình các tội phạm liên quan đến môi trường ngày càng
gia tăng về số lượng lẫn mức độ gây hại, ảnh hưởng lớn đến đời sống
kinh tế xã hội của nhân dân, Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam đã được
xây dựng và trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. BLHS 1985 đã dành một
số điều để quy định về tội phạm môi trường. Trên cơ sở đó BLHS 1999
tiếp tục hoàn thiện những quy định về tội phạm môi trường thông qua
việc dành riêng một chương để quy định về các tội phạm liên quan đến
môi trường. Những quy định của pháp luật hình s ự về tội phạm môi
trường ngày càng được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu công tác đấu
tranh phòng và chống tội phạm môi trường.
54 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2612 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những nội dung mới được sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật hình sự 1999 của các tội phạm về môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Những nội dung mới được sửa đổi, bổ
sung trong Bộ luật hình sự 1999 của
các tội phạm về môi trường
1
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn tập thể các thầy giáo, cô giáo
đang công tác và giảng dạy tại trường Đại học Luật Hà Nội đã
quan tâm và tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt khóa học và
trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Đặc biệt em xin cảm ơn thầy giáo – Tiến sỹ Lê Đăng
Doanh – Giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội là người đã
hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành công trình khoa học này.
Hà Nội, tháng 4 năm 2010
Sinh viên
Lương Thị Hoài Thu
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 0
Chương 1 ................................................................................................. 6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM MÔI TRƯỜNG THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM ........................................ 6
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tội phạm môi trường ............................... 6
1.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm về môi trường: ................................. 10
1.3. Những quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật hình sự 1999
(trước khi sửa đổi, bổ sung) .................................................................... 13
1.4. Thực tiến áp dụng những quy định của BLHS 1999 (trước khi sửa
đổi, bổ sung) về tội phạm môi trường ..................................................... 17
Chương 2 ................................................................................................ 24
NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VỀ TỘI
PHẠM MÔI TRƯỜNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ............... 24
2.1. Những vướng mắc và bất cập trong thực tiễn áp dụng những quy
định của BLHS 1999 (trước khi sửa đổi, bổ sung) .................................. 24
2.2. Những nội dung mới của Bộ luật hình sự 1999 về tội phạm môi
trường ..................................................................................................... 29
2.3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả xử lý hình sự đối với các tội
phạm về môi trường ................................................................................ 44
Danh mục tài liệu tham khảo................................................................... 52
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, vấn đề bảo vệ môi
trường đã trở thanh nhiệm vụ cấp bách không chỉ đối với Việt Nam mà
của toàn thế giới bởi sự suy thoái cũng như sự suy giảm chất lượng môi
trường đáng báo động trong thời gian gần đây. Nhận thức được những
biến đổi ngày càng nghiêm trọng do ô nhiễm môi trường và tầm quan
trọng của việc bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến
vấn đề bảo vệ môi trường trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội hướng
đến sự phát triển bền vững. Trong đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật về môi trường là một hoạt động rất cần thiết, thiết lập
công cụ quan trọng để quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về môi
trường như Luật bảo vệ môi trường năm 2005, Luật bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004, Luật thủy sản năm 2003…
Trước tình hình các tội phạm liên quan đến môi trường ngày càng
gia tăng về số lượng lẫn mức độ gây hại, ảnh hưởng lớn đến đời sống
kinh tế xã hội của nhân dân, Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam đã được
xây dựng và trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. BLHS 1985 đã dành một
số điều để quy định về tội phạm môi trường. Trên cơ sở đó BLHS 1999
tiếp tục hoàn thiện những quy định về tội phạm môi trường thông qua
việc dành riêng một chương để quy định về các tội phạm liên quan đến
môi trường. Những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm môi
trường ngày càng được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu công tác đấu
tranh phòng và chống tội phạm môi trường. Tuy nhiên trong quá trình
4
thực thi và áp dụng BLHS 1999 đã cho thấy những quy định về tội phạm
môi trường còn nhiều điểm chưa thật sự phù hợp và còn nhiều hạn chế
dẫn đến việc áp dụng trên thực tế còn nhiều khó khăn; nhiều quy định chỉ
mang tính hình thức, không thể áp dụng được. Do đó, hoạt động truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường chưa thật sự hiệu
quả và chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng và chống loại tội
phạm này. Thực trạng này đã đặt ra yêu cầu hoàn thiện các quy định của
BLHS 1999 về tội phạm môi trường nhằm góp phần hoàn thiện hành lang
pháp lý, tạo ra một cơ chế bảo vệ môi trường hiệu quả hơn nữa.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS ban hành ngày
19/6/2009, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2010 đã có những sửa đổi
quan trọng đối với tội phạm về môi trường. Việc nghiên cứu, so sánh và
rút ra những điểm mới của các tội phạm về môi trường là rất cần thiết về
mặt lý luận cũng như góp phần thực thi những quy định mới trong thực
tiễn. Vì vậy em đã chọn đề tài nghiên cứu về “Những nội dung mới được
sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật hình sự 1999 của các tội phạm về môi
trường” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Khóa luận nhằm nghiên cứu, tìm hiểu
những điểm mới trong BLHS 1999 của các tội phạm về môi trường,
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này trong thực tiễn xét xử.
- Khóa luận đã đặt ra và giải quyết một số nhiệm vụ như sau:
+ Nghiên cứu về khái niệm và những nội dung pháp lý chung của
các tội phạm về môi trường.
+ Nghiên cứu về những điểm mới của các tội phạm về môi trường
và đưa ra một số kiến nghị khắc phục những vướng mắc bất cập trong
những quy định của BLHS 1999 của các tội phạm về môi trường.
5
3. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung chủ yếu nghiên cứu và đánh giá những những
nội dung mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự
1999 về nhóm tội phạm môi trường. Qua đó làm rõ những nội dung pháp
lý mới được sửa đổi, bổ sung của nhóm tội phạm này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở lý luận.
- Khóa luận còn sử dụng các phương pháp như: phương pháp thống
kê, phân tích, so sánh, tổng hợp để giải quyết những nội dung cơ bản mà
đề tài đặt ra.
5. Cơ cấu khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo khóa
luận gồm 2 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung của tội phạm về môi trường theo
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2. Những nội dung mới của BLHS 1999 về tội phạm môi
trường và một số đề xuất, kiến nghị.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TỘI PHẠM VỀ MÔI
TRƯỜNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tội phạm về môi trường
Việc xác định khái niệm tội phạm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc định tội danh cũng như xác định hình phạt. Tuy nhiên khái
niệm chung về tội phạm về môi trường đến nay vẫn chưa được luật hoá
mà mới chỉ được định nghĩa trong một số công trình nghiên cứu. Có một
số khái niệm các tội phạm về môi trường được đưa ra như sau:
“ Các tội phạm về môi trường là các hành vi nguy hiểm cho xã hội vi
phạm các quy định của Nhà nước về môi trường, qua đó gây thiệt hại cho
môi trường” 1.
Khái niệm này đã phản ánh được các yếu tố trong mặt khách quan
của cấu thành tội phạm về môi trường bao gồm dấu hiệu hành vi khách
quan và dấu hiệu hậu quả. Theo khái niệm trên hành vi khách quan của
tội phạm về môi trường đó là “hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các
quy định của Nhà nước về môi trường” và dấu hiệu hậu quả đó là “gây
thiệt hại cho môi trường”. Khái niệm trên đã phản ánh được tính chất
nguy hiểm cho xã hội cũng như những hậu quả do hành vi khách quan
của các tội phạm về môi trường gây ra. Tuy nhiên dấu hiệu hành vi khách
quan và dấu hiệu hậu quả được phản ánh trong khái niệm này còn rất khái
quát. Dấu hiệu hành vi khách quan được nêu trong khái niệm chưa thể
hiện được những đặc trưng trong hành vi khách quan của các tội phạm về
môi trường và phân biệt nó với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
1 Xem: ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, 2000, NXB Công an nhân dân. tr. 133
7
vực môi trường. Dấu hiệu hậu quả được phản ánh trong khái niệm trên
cũng chưa khái quát được thiệt hại về môi trường ở mức độ nào thì bị coi
là vi phạm pháp luật hình sự.
Ngoài khái niệm tội phạm môi trường nêu trên, trong cuốn sách
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 của GS.TSKH Lê Cảm có đưa
ra khái niệm tội phạm môi trường như sau:
“Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do
những người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm hại đến sự
bền vững và ổn định của môi trường; xâm hại đến các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi trường, gây ra những hậu
qủa xấu đối với môi trường sinh thái” 2.
Khái niệm trên phản ánh tương đối đầy đủ về các yếu tố cấu thành tội
phạm môi trường. Trong đó các dấu hiệu của mặt khách quan bao gồm dấu
hiệu hành vi và dấu hiệu hậu quả. Theo đó dấu hiệu hành vi khách quan của
các tội phạm môi trường đó là “hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật
hình sự quy định vi phạm các quan hệ xã hội liên quan đến bảo vệ môi
trường”, và dấu hiệu hậu quả là “ gây hậu quả xấu đối với môi trường sinh
thái”. Khái niệm trên cũng đã làm rõ khách thể của tội phạm môi trường là
“các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi
trường”. Tuy nhiên cũng như khái niệm trên, khái niệm về tội phạm môi
trường này vẫn chưa thể hiện được đặc trưng của hành vi khách quan của tội
phạm môi trường và phân biệt nó với các hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực môi trường.
Việc hình thành khái niệm “tội phạm về môi trường” một cách hợp
lý, khoa học, chính xác sẽ là khởi điểm cần thiết để giải quyết về bản chất
tất cả các vấn đề trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
2 Xem: Bình luận khoa học BLHS 1999, PGS. TSKH Lê Cảm ( 2001), NXB Công an nhân dân, tr.320
8
Bởi nếu không có sự nhận thức đúng đắn về loại tội phạm này, việc xây
dựng được các hình thức chế tài, phạm vi và nhiệm vụ của hoạt động
phòng ngừa sẽ còn nhiều khó khăn.
Qua nghiên cứu, chọn lọc những nội dung hợp lý, theo em tội
phạm về môi trường có thể được khái quát chung như sau:
Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật
hình sự quy định, xâm hại đến các quan hệ xã hội trong lĩnh vực môi
trường liên quan đến việc bảo vệ môi trường tự nhiên, sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên thiên nhiên, và bảo vệ môi trường sống cho con người.
Qua đó gây thiệt hại nghiêm trọng trực tiếp hay gián tiếp đến môi trường
tự nhiên và môi trường sống của con người.
- Từ khái niệm tội phạm về môi trường có thể khái quát những đặc
điểm của tội phạm về môi trường như sau:
Thứ nhất, hành vi khách quan của nhóm tội phạm về môi trường là
hành vi xâm phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường.
Hành vi khách quan của các tội phạm về môi trường rất đa dạng như hành
vi thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường,
phát bức xạ, phóng xạ quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải (Điều
182); hay những hành vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người và
động vật, thực vật như hành đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực
vật, sản phẩm động vật thực vật hoặc vật phẩm khác bị nhiễm bệnh hoặc
mang mầm bệnh (Điều 187.BLHS 1999 đã sửa đổi, bổ sung ngày
19/6/2009); hành vi xử dụng chất độc chất nổ, các hóa chất khác, dòng
điện hoặc các phương tiện ngư cụ khác bị cấm để khai thác thủy sản hoặc
hủy hoại nguồn lợi thủy sản (Điều 188. BLHS 1999 đã sửa đổi, bổ sung);
hành vi đốt phá rừng trái phép (Điều 189. BLHS 1999 đã sửa đổi, bổ
9
sung) hoặc săn bắn, giết vận chuyển, buôn bán trái phép động vật hoang
dã quý hiếm bị cấm (Điều 190. BLHS 1999 đã sửa đổi, bổ sung )…
Thứ hai, hậu quả do các tội phạm về môi trường gây ra cũng rất đa
dạng, hành vi vi phạm các quy định của BLHS về tội phạm môi trường có
thể gây ra những hậu quả như có thể gây ảnh hưởng xấu đến môi trường
tự nhiên, môi trường sống của con người; qua đó gây thiệt hại trực tiếp
hoặc gián tiếp đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Những
thiệt hại về tài sản ở đây bao gồm cả thiệt hại thực tế và chi phí khắc phục
thiệt hại đã gây ra. Dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc, có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định tội danh và định khung hình phạt của hầu
hết các tội danh thuộc nhóm tội này.
Thứ ba, chủ thể của các tội phạm về môi trường đều có thể là chủ
thể bình thường; người đạt độ tuổi theo luật định và có năng lực trách
nhiệm hình sự đều có thể trở thành chủ thể của các tội danh thuộc nhóm
tội này. Chủ thể của tội phạm môi trường thực hiện hành vi với lỗi cố ý.
Động cơ mục đích của người phạm tội tương đối đa dạng nhưng không có
ý nghĩa trong việc định tội.
Các tội phạm về môi trường được quy định chi tiết trong Bộ luật
hình sự và chưa có văn bản hướng dẫn thi hành dưới luật. Mỗi điều khoản
về tội phạm môi trường trong Bộ luật hình sự 1999 đều xác định hành vi
phạm tội rõ ràng, và những quy định những căn cứ để truy cứu trách
nhiệm hình sự, căn cứ định khung và định hình phạt. Các quy định về tội
phạm về môi trường của Việt Nam cũng tuân thủ một số công ước và
hiệp ước mà Việt Nam tham gia và ký kết như tuân thủ công ước Basel
về kiểm soát, vận chuyển xuyên biên giới các phế thải nguy hiểm và việc
tiêu huỷ chúng, được cụ thể hóa ở điều 185 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ
Việt Nam ).
10
1.2.Các yếu tố cấu thành tội phạm về môi trường
Căn cứ theo quy định tại Chương XVII –Các tội phạm về môi
trường của Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009) có thể
khái quát các yếu tố cấu thành tội phạm môi trường như sau:
a. Khách thể của tội phạm về môi trường
Khách thể của tội phạm môi trường là các quan hệ xã hội được
pháp luật hình sự bảo vệ và bị hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm.
Các tội phạm về môi trường xâm hại đến sự bền vững ổn định của môi
trường, xâm hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý
và bảo vệ môi trường gây ra những hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng cho môi trường sinh thái cũng như cho
tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người.
b. Mặt khách quan của các tội phạm về môi trường
Hành vi khách quan của các tội phạm phạm về môi trường là các
hành vi đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể đến sự ổn định bền
vững của môi trường, xâm hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực quản lý và bảo vệ môi trường.
Các hành vi khách quan của các tội phạm về môi trường rất đa
dạng. Hành vi đó có thể được thực hiện thông qua việc vi phạm các quy
định về bảo vệ môi trường, gây ô nhiễm môi trường, gây dịch bệnh cho
con người và động vật; hủy hoại tài nguyên môi trường hoặc vi phạm chế
độ bảo vệ đặc biệt đối với một số đối tượng môi trường. Hầu hết các hành
vi đều được thể hiện dưới dạng hành động như gây ô nhiễm không khí,
gây ô nhiễm nguồn nước, nhập khẩu công nghệ máy móc thiết bị, phế
thải hoặc các chất không đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, hủy hoại
nguồn lợi thủy sản…
11
Một số cấu thành các tội phạm về môi trường đều có quy định dấu
hiệu đã bị xử phạt vi phạm hành chính có ý nghĩa trong việc xác định tội
danh như tại các Điều 187, Điều 188, Điều 189 (BLHS 1999 sửa đổi, bổ
sung ngày 19/6/2009 ). Trong đó hành vi vi phạm đã bị xử phạt hành
chính phải là hành vi vi phạm pháp luật về môi trường cùng loại mới bị
coi là căn cứ để xác định dấu hiệu này.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 187. Tội làm lây lan dịch bệnh nguy
hiểm cho động thực vật thì “ Người nào có các hành vi sau đây làm lây
lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm…”
Như vậy nếu như sau một năm kể từ ngày bị xử phạt vi phạm hành chính
mà lại tiếp tục vi phạm, thì người đó cũng sẽ không bị xử lý hình sự về
hành vi này.
- Dấu hiệu hậu quả nghiêm trọng cũng là dấu hiệu bắt buộc có ý
nghĩa quan trọng trong việc định tội danh của hầu hết các tội phạm về
môi trường. Hậu quả do các tội phạm về môi trường gây ra có thể là thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người trong đó thiệt hại về tài
sản (bao gồm thiệt hại thực tế và chi phí khắc phục thiệt hại). Hay những
thiệt hại về môi trường như diện tích đất, nước, khu vực không khí bị ô
nhiễm, sự biến đổi khí hậu…
Như vậy, trong mặt khách quan của tội phạm môi trường dấu hiệu
đã bị xử phạt vi phạm hành chính và gây hậu quả nghiêm trọng được coi
là dấu hiệu có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh của hầu hết các
tội trong nhóm này.
12
c. Mặt chủ quan của tội phạm về môi trường
Trong mặt chủ quan của tội phạm thì yếu tố lỗi là thái độ tâm lý
của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành
vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Đối với các tội phạm về môi trường tội phạm được thực hiện do lỗi
cố ý, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, thường là không mong
muốn nhưng có ý thức để mặc cho hành vi đó xẩy ra. Động cơ và mục
đích của người phạm tội tương đối đa dạng nhưng không có ý nghĩa trong
việc định tội.
d. Chủ thể của các tội phạm về môi trường
Chủ thể của tội phạm là những người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định. Chủ
thể của các tội phạm về môi trường là chủ thể bình thường, những người
nào đạt độ tuổi luật định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể
trở thành chủ thể của các tội thuộc nhóm tội này.
e.Hình phạt đối với các tội phạm về môi trường
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước
nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục ý thức tuân theo pháp luật và
ngăn ngừa đấu tranh phòng chống tội phạm Hình phạt đối với các tội
phạm môi trường cũng rất đa dạng bao gồm hình phạt tiền, hình phạt cải
tạo không giam giữ và phạt tù; ngoài ra còn có các hình phạt bổ sung cấm
đảm nhiệm chức vụ, như cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Trong đó quy định chỉ áp dụng hình phạt tù như một biện pháp cuối cùng
khi xét thấy cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mới đạt được
mục đích giáo dục cải tạo họ. Mức phạt cải tạo không giam giữ tối đa là
13
ba năm mức phạt tù được quy định thấp nhất là sáu tháng, cao nhất là
mười lăm năm.
Hình phạt chính được quy định cho các tội phạm về môi trường có
nhiều loại khác nhau với những mức độ nghiêm khắc khác nhau. Đó là
phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ và phạt tù. Việc quy định hình
phạt tiền là hình phạt chính trong hầu hết các tội và là hình phạt bổ sung
có trong tất cả các tội là rất hợp lý. Vì chủ thể của các tội phạm môi
trường chủ yếu phạm tội nhằm mục đích lợi nhuận; do vậy việc đánh vào
kinh tế bên cạnh tác dụng răn đe phòng ngừa còn tạo nguồn vật chất khắc
phục những thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra.
Các quy định về hình phạt đối với các tội phạm về môi trường đã
thể hiện đầy đủ chính sách xử lý của Nhà nước ta đó là áp dụng biện pháp
giáo dục là chủ yếu, chỉ xử lý bằng biện pháp hình sự trong những trường
hợp cần thiết (hành vi mang tính nguy hiểm cao hoặc đã gây hậu quả
nghiêm trọng). Hình phạt được áp dụng chủ yếu là hình phạt tiền, hình
phạt tù chỉ được áp dụng như một biện pháp cuối cùng khi thấy xét thấy
cần phải cách ly và cải tạo đối với họ.
1.3. Những quy định về tội phạm môi trường trong Bộ
luật hình sự 1999 ( trước khi được sửa đổi, bổ sung )
Trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay; đi đôi với quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước diễn ra ngày càng mạnh mẽ là
những tác động ngà