Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế, là một đơn vị
hạch toán độc lập, tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra các sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu về lợi
nhuận. Tối đa hoá lợi nhuận là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Muốn
vậy, doanh nghiệp cần phải có những quyết sách, chiến lược phù hợp, kip thời đối với các
hoạt động kinh tế của mình. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường đa thành phần, nếu chỉ
dựa vào khả năng của mình và bỏ qua sự hỗ trợ của các nguồn lực bên ngoài, doanh
nghiệp khó có thể đứng vững và phát triển được.
Phân tích tình hình tài chính là một công việc thường xuyên và vô cùng cần thiết
không những đối với chủ sở hữu doanh nghiệp mà còn cần thiết đối với tất cả các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp có quan hệ về kinh tế và pháp lý với doanh nghiệp. Đánh
giá được đúng thực trạng tài chính, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra được các quyết định kinh
tế thích hợp, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và các nguồn lực; Nhà đầu tư
có quyết định đúng đắn với sự lựa chọn đầu tư của mình; các chủ nợ được đảm bảo về khả
năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản cho vay; Nhà cung cấp và khách hàng
đảm bảo được việc doanh nghiệp sẽ thực hiện các cam kết đặt ra; các cơ quan quản lý Nhà
nước có được các chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cũng như hỗ trợ cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp và đồng thời kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp
bằng pháp luật.
Báo cáo tài chính kế toán là sản phẩm cuối cùng của công tác kế toán, tất cả các
thông tin mà kế toán cung cấp đều được thể hiện trên báo cáo tài chính kế toán cuối kỳ của
doanh nghiệp. Chính vì vậy mà chúng ta có thể coi hệ thống báo cáo tài chính kế toán là
một tấm gương phản ánh toàn diện về tình hình tài chính, khả năng và sức mạnh của một
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Do đó, việc trình bày các báo cáo tài chính kế
toán một cách trung thực và khách quan sẽ là đIều kiện tiên quyết để phân tích chính xác
tình hình tài chính của doanh nghiệp
122 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1890 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống báo cáo tài chính kế toán và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống
báo cáo tài chính kế toán và các biện pháp nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty
Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế, là một đơn vị
hạch toán độc lập, tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra các sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu về lợi
nhuận. Tối đa hoá lợi nhuận là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Muốn
vậy, doanh nghiệp cần phải có những quyết sách, chiến lược phù hợp, kip thời đối với các
hoạt động kinh tế của mình. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường đa thành phần, nếu chỉ
dựa vào khả năng của mình và bỏ qua sự hỗ trợ của các nguồn lực bên ngoài, doanh
nghiệp khó có thể đứng vững và phát triển được.
Phân tích tình hình tài chính là một công việc thường xuyên và vô cùng cần thiết
không những đối với chủ sở hữu doanh nghiệp mà còn cần thiết đối với tất cả các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp có quan hệ về kinh tế và pháp lý với doanh nghiệp. Đánh
giá được đúng thực trạng tài chính, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra được các quyết định kinh
tế thích hợp, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và các nguồn lực; Nhà đầu tư
có quyết định đúng đắn với sự lựa chọn đầu tư của mình; các chủ nợ được đảm bảo về khả
năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản cho vay; Nhà cung cấp và khách hàng
đảm bảo được việc doanh nghiệp sẽ thực hiện các cam kết đặt ra; các cơ quan quản lý Nhà
nước có được các chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cũng như hỗ trợ cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp và đồng thời kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp
bằng pháp luật.
Báo cáo tài chính kế toán là sản phẩm cuối cùng của công tác kế toán, tất cả các
thông tin mà kế toán cung cấp đều được thể hiện trên báo cáo tài chính kế toán cuối kỳ của
doanh nghiệp. Chính vì vậy mà chúng ta có thể coi hệ thống báo cáo tài chính kế toán là
một tấm gương phản ánh toàn diện về tình hình tài chính, khả năng và sức mạnh của một
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Do đó, việc trình bày các báo cáo tài chính kế
toán một cách trung thực và khách quan sẽ là đIều kiện tiên quyết để phân tích chính xác
tình hình tài chính của doanh nghiệp .
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính và đánh giá
thực trạng tài chính của một doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại Công ty Dụng cụ
cắt và Đo lường cơ khí, nhờ có sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và các cán bộ phòng
kế toán tài vụ, Ban quản lý của Công ty, em đã mạnh dạn chọn đề tài: "Phân tích tình
hình tài chính thông qua hệ thống báo cáo tài chính kế toán và các biện pháp nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày với nội dung như sau :
Phần I: Lý luận chung về phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống báo cáo
tài chính kế toán trong doanh nghiệp
Phần II: Phân tích tình hình tài chính của Công ty Dụng cụ cắt và Đo lường cơ khí
chủ yếu thông qua bảng CĐKT và BCKQKD:
Phần III: Một số kiến nghị và giải pháp đề xuất nhằm cải thiện tình hình tài chính
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Dụng cụ cắt
và Đo lường cơ khí.
Phần I
Lý luận chung về phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống
báo cáo tài chính kế toán trong doanh nghiệp
---------------&---------------
I. Tài chính doanh nghiệp và sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp.
1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp và các mối quan hệ tài chính chủ yếu của
doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp :
Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong bản thân doanh
nghiệp mà cả trong nền kinh tế, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia mà
tại đây diễn ra quá trình sản xuất kinh doanh : Đầu tư, tiêu thụ và phân phối, trong đó sự
chu chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của vật tư hàng hoá.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình sản xuất kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Nói cách khác, trên giác độ
kinh doanh vốn, hoạt động tài chính là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức,
huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn một cách có hiệu quả.
Để nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp mình cũng như tình hình tài
chính của các đối tượng quan tâm thì việc phân tích tài chính là rất quan trọng. Thông qua
việc phân tích tình hình tài chính, người ta có thể sử dụng thông tin đánh giá tiềm năng,
hiệu quả kinh doanh cũng như rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh nghiệp. Bởi
vậy, việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm
đối tượng khác nhau như Ban giám đốc (Hội đồng quản trị) các nhà đầu tư, các cổ đông,
các chủ nợ, các nhà cho vay tín dụng, nhân viên ngân hàng, các nhà bảo hiểm và kể cả cơ
quan Nhà nước cũng như người lao động. Mỗi nhóm người này có nhu cầu thông tin khác
nhau, do vậy mỗi nhóm có những xu hướng tập trung vào các khía cạnh riêng trong bức
tranh tài chính của một doanh nghiệp.
1.2: Các mối quan hệ tài chính chủ yếu của doanh nghiệp:
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp rất phức tạp, phong phú và đa dạng, muốn
phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thì trước hết phải hiểu rõ được các mối
quan hệ tài chính chủ yếu của doanh nghiệp:
1.2.1: Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước:
Quan hệ này phát sinh dưới hình thái tiền tệ, theo hai chiều vận động ngược nhau.
Đó là: Ngân sách Nhà nước góp phần hình thành vốn sản xuất kinh doanh (tuỳ theo mức
độ và loại hình sở hũu doanh nghiệp); Ngược lại doanh nghiệp phải nộp các khoản thuế,
phí, lệ phí theo quy định để hình thành Ngân sách Nhà nước.
1.2.2: Quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức trung gian tài chính:
Các trung gian tài chính (chủ yếu là ngân hàng ) là cầu nối giữa người có vốn tạm
thời nhàn rỗi vơí người cần vốn để đầu tư kinh tế. Quan hệ này phát sinh khi doanh nghiệp
đi vay vốn của các tổ chức tín dụng đồng thời trả chi phí cho việc sử dụng vốn đi vay đó .
1.2.3: Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường:
Với tư cách là một chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp có quan hệ với thị trường
cung cấp các yếu tố đầu vào và thị trường phân phối đầu ra.Thông qua thị trường, doanh
nghiệp có thể xác định nhu cầu sản phẩm và dịch vụ cung ứng, từ đó doanh nghiệp xác
định số tiền đầu tư cho kế hoạch sản xuất và tiêu thụ nhằm thoả mãn nhu câù xã hội và thu
được lợi nhuận tối đa với lượng chi phí bỏ ra thấp nhất , đứng vững và liên tục mở rộng thị
trường trong môi trường cạnh tranh khốc liệt.
Trong nền kinh tế thị trường, ngoài các yếu tố nêu trên, các doanh nghiệp còn phải
tiếp cận với thị trường vốn. Doanh nghiệp có thể tạo ra được nguồn vốn dài hạn bằng việc
phát hành chứng khoán như kỳ phiếu, cổ phiếu, đồng thời có thể kinh doanh chứng khoán
để kiếm lời trên thị trường này.
1.2.4: Quan hệ phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp:
Biểu hiện của quan hệ này là sự luân chuyển vốn trong doanh nghiệp. Đó là các
quan hệ tài chính giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh với nhau, giữa các đơn vị thành
viên với nhau, giữa quyền sử dụng vốn và sở hữu vốn. Các quan hệ này được biểu hiện
thông qua các chính sách tài chính của doanh nghiệp như chính sách phân phối thu nhập,
chính sách về cơ cấu vốn, về đầu tư và cơ cấu đầu tư.
1.2.5: Quan hệ giữa doanh nghiệp với hộ gia đình:
Quan hệ này phát sinh khi doanh nghiệp thu hút sức lao động, tiền vốn của các
thành viên hộ gia đình để phục vụ cho mục tiêu kinh doanh, đồng thời doanh nghiệp phải
trả tiền lương, lãi suất cho họ.
1.2.6: Quan hệ giữa doanh nghiệp với các đối tác nước ngoài:
Quan hệ này phát sinh khi doanh nghiệp vay, cho vay, trả nợ và đầu tư với các tổ
chức kinh tế nước ngoài.
Tóm lại, thông qua các mối quan hệ trên cho thấy tài chính doanh nghiệp đã góp
phần hình thành nên nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, các doanh nghiệp phải sử dụng đúng
đắn và có hiệu quả các công cụ tài chính nhằm thúc đấy doanh nghiệp không ngừng hoàn
thiện các phương thức kinh doanh để đạt hiệu quả cao hơn, nếu không sẽ kìm hãm sự phát
triển của toàn bộ hệ thống tài chính quốc gia.
2. Sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế
thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển được thì phải bảo
đảm một tình hình tài chính vững chắc và ổn định. Muốn vậy phải phân tích được tình hình
tài chính của doanh nghiệp. Phân tích tài chính là nghiên cứu khám phá hoạt động tài
chính đã được biểu hiện bằng con số. Cụ thể hơn , phân tích tình hình tài chính là quá trình
xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ mà nếu
không phân tích thì các con số đó chưa có ý nghĩa lớn đối với những người quan tâm đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhiệm vụ của phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp là sử dụng các công cụ, phương pháp và kỹ thuật để làm các con số nói lên
thực chất của tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các quyết định của người quan tâm sẽ
chính xác hơn nếu như họ nắm bắt được cơ chế hoạt động tài chính thông qua việc sử
dụng thông tin của phân tích tài chính. Mặc dù việc sử dụng thông tin tài chính của một
nhóm người trên những góc độ khác nhau, song phân tích tình hình tài chính cũng nhằm
thoả mãn một cách duy nhất cho các đối tương quan tâm, cụ thể là:
Đối với bản thân doanh nghiệp: Việc phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho các
nhà lãnh đạo và bộ phận tài chính doanh nghiệp thấy được tình hình tài chính của đơn vị
mình và chuẩn bị lập kế hoạch cho tương lai cũng như đưa ra các kết quả đúng đắn kịp
thời phục vụ quản lý. Qua phân tích, nhà lãnh đạo doanh nghiệp thấy được một cách toàn
diện tình hình tài chính trong doanh nghiệp trong mối quan hệ nội bộ với mục đích lợi
nhuận và khả năng thanh toán để trên cơ sở đó dẫn dắt doanh nghiệp theo một chiều hướng
sao cho chỉ số của chỉ tiêu tài chính thoả mãn yêu cầu của chủ nợ cũng như của các chủ sở
hữu.
Đối với các chủ Ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng: Phân tích tình hình tài
chính cho thấy khả năng thanh toán của doanh nghiệp về các khoản nợ và lãi. Đồng thời,
họ quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu, khả năng sinh lời của doanh nghiệp để đánh
giá đơn vị có trả nợ được hay không trước khi quyết định cho vay.
Đối với nhà cung cấp: Doanh nghiệp là khách hàng của họ trong hiện tại và
tương lai. Họ cần biết khả năng thanh toán có đúng hạn và đầy đủ của doanh nghiệp đối
với món nợ hay không. Từ đó họ đặt ra vấn đề quan hệ lâu dài đối với doanh nghiệp hay từ
chối quan hệ kinh doanh .
Đối với các nhà đầu tư : Phân tích tình hình tài chính giúp cho họ thấy khả năng
sinh lợi, mức độ rủi ro hiện tại cũng như trong tương lai của doanh nghiệp để quyết định
xem có nên đầu tư hay không.
Đối với công nhân viên trong doanh nghiệp: Nhóm người này cũng muốn biết về
thu nhập của mình có ổn định không và khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Đối với Nhà nước: Cần thông tin cho việc áp dụng các chính sách quản lý vĩ mô,
để điều tiết nền kinh tế.
Như vậy, hoạt động tài chính tập trung vào việc mô tả mối quan hệ mật thiết giữa
các khoản mục và nhóm các khoản mục nhằm đạt đươc mục tiêu cần thiết phục vụ cho chủ
doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác nhằm đưa ra quyết định hợp lý, hiệu quả
phù hợp với mục tiêu của đối tượng này. Mục đích tối cao và quan trọng nhất của phân
tích tình hình tài chính là giúp cho nhà quản trị lựa chọn được phương án kinh doanh tối
ưu và đánh giá chính xác tiềm năng của doanh nghiệp. Để phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp thì hệ thống báo cáo tài chính kế toán của doanh nghiệp chính là cơ sở tài
liệu hết sức quan trọng .
II. Hệ Thống báo cáo tài chính kế toán trong phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
1. Khái niệm và ý nghĩa.
1.1. Khái niệm:
Báo cáo tài chính kế toán là những báo cáo tổng hợp được lập dựa vào phương pháp
kế toán tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tại
những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Các báo cáo tài chính kế toán phản ánh một cách
có hệ thống tình hình tài sản, công nợ, tình hình sử dụng vốn và kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong những thời kỳ nhất định, đồng thời chúng được giải trình
giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính nhận biết được thực trạng tài chính và
tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị để đề ra các quyết định cho phù hợp .
1.2. ý nghĩa:
Báo cáo tài chính kế toán là căn cứ quan trọng cho việc đề ra quyết định quản lý
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách thích hợp, giúp cho chủ doanh nghiệp
sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và các nguồn lực, nhà đầu tư có được quyết
định đúng đắn đối với sự đầu tư của mình, các chủ nợ được bảo đảm về khả năng thanh
toán của doanh nghiệp về các khoản cho vay, Nhà cung cấp và khách hàng đảm bảo được
việc doanh nghiệp thực hiện các cam kết, các cơ quan Nhà nước có được các chính sách
phù hợp để hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
cũng như kiểm soát được doanh nghiệp bằng pháp luật
2. Vai trò mục đích và các yêu cầu đối với các thông tin trình bày trên hệ thống báo
cáo tài chính kế toán
2.1. Vai trò:
Hệ thống báo cáo tài chính kế toán của doanh nghiệp có những vai trò sau đây :
* Cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết, giúp kểm tra phân tích một
cách tổng hợp toàn diện có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện các
chỉ tiêu tài chính chủ yếu của doanh nghiệp .
* Cung cấp thông tin, số liệu để kiểm tra, giám sát tình hình hạch toán kinh doanh,
tình hình chấp hành các chính sách chế độ kế toán - tài chính của doanh nghiệp .
* Cung cấp thông tin và số liệu cần thiết để phân tích và đánh giá tình hình, khả
năng về tài chính- kinh tế của doanh nghiệp, giúp cho công tác dự báo và lập kế hoạch tài
chính ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp .
2.2. Mục đích :
Doanh nghiệp phải lập và trình bày các báo cáo tài chính kế toán với các mục đích
sau:
* Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát và toàn diện tình hình biến động về tài
sản công nợ và nguồn vốn chủ sở hữu, tình hình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán .
* Cung cấp các thông tin kinh tế tài chính chủ yếu phục vụ việc đánh giá, phân tích
tình hình kết quả hoạt động kinh doanh đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp
trong kỳ hoạt động đã qua ,làm cơ sở để đưa ra các quyết định kinh tế trong tương lai .
2.3.. Yêu cầu đối các thông tin trình bày trên các báo cáo tài chính kế toán:
Để thực hiện được vai trò là hệ thống cung cấp thông tin kinh tế hữu ích của doanh
nghiệp cho các đối tượng sử dụng, các thông tin trên các báo cáo tài chính kế toán phải đáp
ứng các yêu cầu sau:
Tính dễ hiểu: Các thông tin do các báo cáo tài chính kế toán cung cấp phải dễ
hiểu đối với người sử dụng để họ có thể lấy đó làm căn cứ đưa ra các quyết định của mình.
Tất nhiên người sử dụng ở đây phải là người có kiến thức về hoạt động kinh doanh và hoạt
động kinh tế, hiểu biết về lĩnh vực tài chính kế toán ở một mức độ nhất định .
Độ tin cậy: Để báo cáo tài chính kế toán thực sự hữu ích đối với người sử dụng,
các thông tin trình bầy trên đó phải đáng tin cậy. Các thông tin được coi là đáng tin cậy khi
chúng đảm bảo một số yêu cầu sau
+ Trung thực: Để có độ tin cậy, các thông tin phải được trình bầy một cách trung
thực về những giao dịch và sự kiện phát sinh.
+ Khách quan : Để có độ tin cậy cao, thông tin trình bầy trên báo cáo tài chính kế
toán phải khách quan, không được xuyên tạc hoặc bóp méo một cách cố ý thực trạng tài
chính của doanh nghiệp. Các báo cáo tài chính sẽ không được coi là khách quan nếu việc
lựa chọn hoặc trình bầy có ảnh hưởng đến việc ra quyết định hoặc xét đoán và cách lựa
chọn trình bầy đó nhằm đạt đến kết quả mà người lập báo cáo đã biết trước .
+ Đầy đủ: thông tin trên báo cáo tài chính kế toán cung cấp phải đảm bảo đầy đủ,
không bỏ sót bất cứ khoản mục hay chỉ tiêu nào vì một sự bỏ sót dù nhỏ nhất cũng có thể
gây ra thông tin sai lệch dẫn đến kết luận phân tích nhầm lẫn .
+ Tính so sánh được: Các thông tin do hệ thống báo cáo tài chính kế toán cung cấp
phải đảm bảo cho người sử dụng có thể so sánh chúng với các kỳ trước, kỳ kế hoạch để
xác định được xu hướng biến động thay đổi về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngoài
ra, người sử dụng cũng có nhu cầu so sánh báo cáo tài chính kế toán của các doanh nghiệp
trong cùng lĩnh vực để đánh giá mối tương quan giữa các doanh nghiệp cũng như so sánh
thông tin khi có sự thay đổi về cơ chế chính sách tài chính kế toán mà doanh nghiệp áp
dụng.
+ Tính thích hợp: Để báo cáo tài chính kế toán trở nên có ích cho người sử dụng,
các thông tin trình bầy trên báo cáo tài chính kế toán phải thích hợp với người sử dụng để
họ có thể đưa ra các quyết định kinh tế của mình.
3. Nguyên tắc trình bầy thông tin trên hệ thống báo cáo tài chính kế toán.
Nhìn chung, báo cáo tài chính kế toán là sản phẩm cuối cùng của quá trình hạch
toán của doanh nghiệp. Tất cả các phần hành kế toán đều có mục đích chung là phản ánh
các giao dịch và sự kiện phát sinh trong kỳ để lập và trình bầy báo cáo tài chính kế toán.Vì
vậy, việc trình bầy thông tin trên hệ thống báo cáo tài chính kế toán của doanh nghiệp phải
tuân thủ các nguyên tắc chung sau :
Nguyên tắc thước đo tiền tệ: yêu cầu thông tin trình bầy trên báo cáo tài chính kế
toán phải tuân thủ các quy định về đơn vị tiền tệ và đơn vị tính một cách thống nhất khi
trình bầy các chỉ tiêu trong một niên độ kế toán.
Nguyên tắc coi trọng bản chất hơn hình thức: Một thông tin được coi là trình
bày một cách trung thực về những giao dịch và sự kiện khi chúng phản ánh được bản chất
kinh tế của giao dịch và sự kiện đó chứ không đơn thuần là hình thức của giao dịch và sự
kiện.
Nguyên tắc trọng yếu: Theo nguyên tắc này, mọi thông tin mang tính trọng yếu
cần thiết được trình bày riêng rẽ trong báo cáo tài chính kế toán vì thông tin đó có thể tác
động trực tiếp đến việc đưa ra các quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính
kế toán.
Nguyên tắc tập hợp: Theo nguyên tắc này, đối với các thông tin không mang tính
trọng yếu thì không cần thiết phải trình bày riêng rẽ mà cần tập hợp chúng lại theo cùng
tính chất hoặc cùng chức năng tương đương nhằm mục đích đơn giản hoá công tác phân
tích báo cáo tài chính kế toán.
Nguyên tắc nhất quán: Việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo
tài chính kế toán cần được duy trì một cách nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác,
trừ khi có sự thay đổi quan trọng về tính chất của các hoạt động của doanh nghiệp.
Nguyên tắc so sánh: Các thông tin trình bày trên các báo cáo tài chính kế toán
phải đảm bảo tính so sánh giữa niên độ này và niên độ trước nhằm giúp cho người sử dụng
hiểu được thực trạng tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại và sự biến động của
chúng so với các niên độ trước.
Nguyên tắc dồn tích: Báo cáo tài chính kế toán cần được lập trên cơ sở dồn tích
ngoại trừ các thông tin liên quan đến các luồng tiền mặt. Theo nguyên tắc này, tất cả các
giao dịch và sự kiện cần được ghi nhận khi chúng phát sinh và được trình bày trên các báo
cáo tài chính kế toán phù hợp với niên độ mà chúng phát sinh.
Nguyên tắc bù trừ: Theo nguyên tắc này, báo cáo tài chính kế toán cần trình bày
riêng biệt tài sản Có và tài sản Nợ, không được phép bù trừ các tài sản với các khoản nợ để
chỉ