Trong những năm gần đây, ngành thuỷ sản nói chung và nuôi trồng thuỷ sản nói
riêng có những bước phát triển rất nhanh đem lạ i giá trị to lớn về mặt kinh t ế cho đất
nước. Để có được kết quả như thế chính là nhờ áp dụng kịp thời những tiến bộ khoa học
kỹ thuật của nhiều lĩnh vực trong đó có sự đóng góp quan trọng của ngành công nghiệp
được thể hiện rất rõ nét qua một số dự án và rất nhiều máy móc phục vụ cho nuôi trồng
thuỷ sản ra đời. Đây không chỉ l à điều thật sự cần thiết cho sự ph át triển củariêng
ngành thuỷ sản mà còn là động lực rất tốt cho cả ngành công nghiệp vốn phát triển rất
chậm ở nước ta.
Xu hướng phát triển hiện nay l à các loại máy móc ít nhiều đều có tín h chất tự
động hoặc bán tự động. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất h àng tiêu dùng và sản xuất
thực phẩm , các hệ thống máy tự động đang ngày càng chiếm vai tr ò then chốt trong
việc làm giảm giá thành sản phẩm và tăng năng suất lao động. Đối với khâu đóng gói
sản phẩm, việc sử dụng các loại máy tự động để thay thế cho c ông việc đóng gó i thủ
công là một đều tất yếu vì đây là khâu tốn rất nhiều sức lao động cho những công việc
lặp đi lặp lại một cách không cần thiết. Do đó, trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, nhu
cầu đối với các loại máy đóng g ói là rất lớn v à rất đa dạng. Tuy nhi ên, lâu n ay thị
trường này vốn thuộc về các nh à sản xuất thiết bị n ước ngoài với rất nhiều ưu thế về
công nghệ và kinh nghiệm, việc sản xuất máy móc trong nước thường không đáp ứng tốt
về mặt chất lượng và năng suất mặc dù vẫn có ưu thế về giá thành. Vì vậy, đòi hỏi bức
bách đối với lớp kỹ s ư trẻ hiện nay là phải thiết kế những loại máy ng ày càng tốt hơn
trên cơ s ở kế thừa những thành tựu đã đạt được của những đàn anh đi trước và mạnh
dạn áp dụng các tiến bộ kỹ thuậ t mới nhất của thế giới v ào việc thiết kế và tiến tới chế
tạo các loại máy móc đa dạng đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống.
Trước xu hướng đó, Khoa Cơ khí -trường Đại học Thuỷ Sản đ ã đưa ra một số
đề tài về thiết kế chế tạo một số máy móc thiết bị phục vụ cho ng ành nuôi trồng thuỷ
sản. Một mặt giúp cho sinh viên làm quen v ới công việc của một kỹ s ư sau khi ra
trường, vận dụng hết tất cả những kiến thức chuyên môn đã được học kết hợp với điều
kiện và tình hình thực tế để đưa ra một phương án thiết kế khả thi nhất. Mặt khác, góp
phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp và thuỷ sản nước nhà.
- 2 -Được sự đồng ý của bộ môn Chế tạo máy –Khoa Cơ khí -trường Đại học Thuỷ
sản, em được nhận đề tài: “Thiết kế kỹ thuật dây chuyền đónggói Artemia và trứng
bào xác khô năng su ất 10kg/mẻ đạt ti êu chuẩn thương phẩmphục vụ nuôi trồng
thuỷ sản”của thầy PGS.TS Phạm H ùng Thắng. Nội dung thực hiện trong đề tài này
gồm 7 chương:
Chương 1: Tổng quan về công nghệ sản xuất khô artemia v à trứng bào
xác phục vụ nuôi trồng thuỷ sản.
Chương 2: Nh ững vấn đề chung v ề dây chuyền đóng gói v à l ựa chọn
phương án thiết kế.
Chương 3: Thiết kế kỹ thuật thiết bị định lượng nguyên liệu.
Chương 4: Thiết kế các bộ phận của thiết bị.
Chương 5: Lập quy trình chế tạo các chi tiết đặc thù.
Chương 6: Vận hành và bảo dưỡng.
Chương 7: Kết luận và đề xuất ý kiến
117 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2596 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thiết kế kỹ thuật dây chuyền đóng gói Artemia và trứng bào xác khô năng suất 10kg/mẻ đạt tiêu chuẩn thương phẩm phục vụ nuôi trồng thuỷ sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 -
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, ngành thuỷ sản nói chung và nuôi trồng thuỷ sản nói
riêng có những bước phát triển rất nhanh đem lại giá trị to lớn về mặt kinh tế cho đất
nước. Để có được kết quả như thế chính là nhờ áp dụng kịp thời những tiến bộ khoa học
kỹ thuật của nhiều lĩnh vực trong đó có sự đóng góp quan trọng của ngành công nghiệp
được thể hiện rất rõ nét qua một số dự án và rất nhiều máy móc phục vụ cho nuôi trồng
thuỷ sản ra đời. Đây không chỉ là điều thật sự cần thiết cho sự phát triển của riêng
ngành thuỷ sản mà còn là động lực rất tốt cho cả ngành công nghiệp vốn phát triển rất
chậm ở nước ta.
Xu hướng phát triển hiện nay là các loại máy móc ít nhiều đều có tính chất tự
động hoặc bán tự động. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất
thực phẩm , các hệ thống máy tự động đang ngày càng chiếm vai trò then chốt trong
việc làm giảm giá thành sản phẩm và tăng năng suất lao động. Đối với khâu đóng gói
sản phẩm, việc sử dụng các loại máy tự động để thay thế cho công việc đóng gói thủ
công là một đều tất yếu vì đây là khâu tốn rất nhiều sức lao động cho những công việc
lặp đi lặp lại một cách không cần thiết. Do đó, trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, nhu
cầu đối với các loại máy đóng gói là rất lớn và rất đa dạng. Tuy nhiên, lâu nay thị
trường này vốn thuộc về các nhà sản xuất thiết bị nước ngoài với rất nhiều ưu thế về
công nghệ và kinh nghiệm, việc sản xuất máy móc trong nước thường không đáp ứng tốt
về mặt chất lượng và năng suất mặc dù vẫn có ưu thế về giá thành. Vì vậy, đòi hỏi bức
bách đối với lớp kỹ sư trẻ hiện nay là phải thiết kế những loại máy ngày càng tốt hơn
trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được của những đàn anh đi trước và mạnh
dạn áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới nhất của thế giới vào việc thiết kế và tiến tới chế
tạo các loại máy móc đa dạng đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống.
Trước xu hướng đó, Khoa Cơ khí - trường Đại học Thuỷ Sản đã đưa ra một số
đề tài về thiết kế chế tạo một số máy móc thiết bị phục vụ cho ngành nuôi trồng thuỷ
sản. Một mặt giúp cho sinh viên làm quen với công việc của một kỹ sư sau khi ra
trường, vận dụng hết tất cả những kiến thức chuyên môn đã được học kết hợp với điều
kiện và tình hình thực tế để đưa ra một phương án thiết kế khả thi nhất. Mặt khác, góp
phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp và thuỷ sản nước nhà.
- 2 -
Được sự đồng ý của bộ môn Chế tạo máy – Khoa Cơ khí - trường Đại học Thuỷ
sản, em được nhận đề tài: “Thiết kế kỹ thuật dây chuyền đóng gói Artemia và trứng
bào xác khô năng suất 10kg/mẻ đạt tiêu chuẩn thương phẩm phục vụ nuôi trồng
thuỷ sản” của thầy PGS.TS Phạm Hùng Thắng. Nội dung thực hiện trong đề tài này
gồm 7 chương:
Chương 1: Tổng quan về công nghệ sản xuất khô artemia và trứng bào
xác phục vụ nuôi trồng thuỷ sản.
Chương 2: Những vấn đề chung về dây chuyền đóng gói và lựa chọn
phương án thiết kế.
Chương 3: Thiết kế kỹ thuật thiết bị định lượng nguyên liệu.
Chương 4: Thiết kế các bộ phận của thiết bị.
Chương 5: Lập quy trình chế tạo các chi tiết đặc thù.
Chương 6: Vận hành và bảo dưỡng.
Chương 7: Kết luận và đề xuất ý kiến
Trong quá trình thực hiện đề tài này, mặc dù đã cố gắng nhưng do thời gian,
trình độ hiểu biết và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế cộng với việc đây là lần đầu thiết
kế các loại máy công nghiệp rất phức tạp nên không tránh khỏi những thiếu sót. Nhưng
hy vọng rằng với sự dìu dắt của các thầy cô và sự nổ lực tự thân của các kĩ sư trẻ ,
trong tương lai gần chúng ta sẽ tự sản xuất được những loại máy đáp ứng được đòi hỏi
của thị trường. Kính mong các thầy cô, các bạn cảm thông và góp ý để đề tài này được
hoàn thiện tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô và các bạn.
Nha Trang, tháng 11 năm 2007
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thái Dương
- 3 -
LỜI CẢM ƠN
Sau gần 5 năm ngồi trên giảng đường đại học, để có ngày nhận được quyết
định làm đề tài tốt nghiệp và hoàn thành đế tài này, đó không chỉ là sự cố gắng của
riêng bản thân em mà bên cạnh đó còn có rất nhiều sự ủng hộ, dạy bảo và giúp đỡ của
gia đình, thầy cô và bạn bè, đây thật sự là một chặn đường dài chan chứa bao nổi vui
buồn nhưng cùng vô cùng ý nghĩa.Thông qua đề tài này, em xin có lời cảm ơn đến tất cả
những người đã quan tâm giúp đỡ em trong những tháng ngày học đại học:
Đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn tất cả những thầy cô của trường Đại học
Thuỷ Sản trước đây, nay là trường Đại học Nha Trang nói chung và những thầy cô
trong khoa Cơ khí, Bộn môn Chế Tạo Máy, Xưởng cơ khí nói riêng đã dạy dỗ và dìu dắt
em từ những ngày đầu bước vào giảng đường đại học.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy PSG.TS Phạm Hùng
Thắng cùng Thầy Th.s Trần An Xuân đã tình giúp đỡ và chỉ bảo em trong quá trình thực
hiện đề tài này.
Qua đây, em cũng muốn nói lời cảm ơn đến gia đình, đặc biệt là bố mẹ đã tạo
điều kiện thuận lợi từ vật chất đến tinh thần để em có thể hoàn thành khoá học.
Cuối cùng, xin cảm ơn tất cả những bạn lớp 45CT, kĩ sư Đỗ hoàng Việt
(TP.HCM) nguyên là sinh viên khóa 43 CK, bạn Huỳnh Ngọc Thế, Lý Xuân Hải, Hồ Thế
Vũ, Nguyễn Văn Quãng, Nguyễn Vũ Lịch… những người đã giúp đỡ em rất nhiều trong
học tập và rèn luyện.
Nha Trang, tháng 11 năm 2007
Sinh viên
Nguyễn Thái Dương
- 4 -
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT KHÔ
ARTEMIA VÀ TRỨNG BÀO XÁC PHỤC VỤ NUÔI
TRỒNG THUỶ SẢN
1.1. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA ARTEMIA
1.1.1. Hệ thống phân loại
Artemia thuộc nhóm giáp xác có hệ thống phân loại như sau:
Ngành : Arthropoda
Lớp : Crustacea
Lớp phụ : Branchiopoda
Bộ : Anostraca
Họ : Artemiidae
Giống : Artemia, Leach 1819
Trong các dòng Artemia lưỡng tính hoặc dị hợp ( quần thể bao gồm con
đực và con cái) đã xác định có tất cả sáu loài anh em như sau:
Artemia salina: Lymington ( Anh, đã không còn hiện diện)
Artemia tunisiana : Châu Âu
Artemia franciscana : Châu Mỹ ( Bắc, Trung và Nam Mỹ )
Artemia perrsimilis : Argentina
Artemia urmiana : Iran
Artemia monica : Mono Lake, CA-USA
( Theo P.Sorgeloos.1986)
Vì những thể mới đang được liên tục mô tả đặc điểm , nên các nhà khoa
học được thuyết phục nên sử dụng tên Artemia. Trừ khi chúng có đủ bằng chứng
về sinh hoá, di truyền tế bào hoặc hình thái để định rõ tên loài.
1.1.2. Vòng đời và đặc điểm sinh trưởng của Artemia
* Vòng đời phát triển
- 5 -
Để hoàn thành vòng đời của mình , Artemia trải qua nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau.
* Đặc điểm sinh trưởng của Artemia
Sự sinh trưởng và phát triển của Artemia trải qua nhiều giai đoạn khác
nhau. Ngoài tự nhiên, vào một thời điểm nào đó trong năm Artemia sẽ đẻ trứng
bào xác nổi trên mặt nước và được song thổi dạt vào bờ. Trứng này ở trạng thái
ngừng hoạt động trao đổi chất và ở tình trạng giữ khô. Các sản phẩm trứng nghỉ
là một đặc điểm thích nghi của Artemia với điều kiện môi trường bất lợi.
* Trứng bào xác có dạng hình cầu lõm, màu nâu hay nâu sậm, kích thước đạt
200-300µm trung bình một gam trứng bào xác có khoảng 270.000 đến 300.000
trứng. Trứng bào xác sinh ra trôi nổi trong điều kiện nước mặn (>20ppt) và chìm
trong nước ngọt. Nó có cấu tạo gồm hai phần :
● Phần vỏ có cấu tạo gồm 3 lớp:
Ngoài cùng là lớp Chorion có bản chất là một lipoprotein chứa đầy kitin
và hematin (sắc tố đen) có tác dụng bảo vệ vỏ trứng khỏi những tác động
cơ học và các tác động cơ học khác của môi trường. Lớp này sẽ bị phá huỷ
dưới tác dụng của hypochlorine.
Ở giữa là lớp màng ngoại bì có tác dụng ngăn cản những phân tử có kích
thước lớn hơn phân tử CO2 xâm nhập.
Trong cùng là lớp màng phôi trong suốt và có tính đàn hồi cao.
●Phần phôi trong trứng bào xác chỉ phát triển đến giai đoạn phôi vị thì dừng lại
ở trạng thái tiềm sinh với độ ẩm trong trứng < 10%. Trứng bào xác nếu được bảo
quản tốt có thể giữ được nhiều năm.
Trứng bào xác khi gặp môi trường nước biển sẽ hấp thụ nước và trở nên
căng tròn (trương nước). Lúc này bên trong trứng bắt đầu xảy ra quá trình trao
đổi chất, phôi tiếp tục phát triển. Trứng ngậm nước và tiêu thụ oxy để hoàn tất
quá trình chuyển hoá carbohydrat hiện tượng chuyển hoá này xảy ra khi độ ẩm
trong trứng >25% và độ mặn thích hợp (5-30ppt). Độ mặn dưới 5ppt thì trứng
vẫn nở nhưng ấu trùng sẽ chết rất nhanh, khi độ mặn trên 70ppt thì sự ngâm nước
- 6 -
không hoàn thành do đó trứng sẽ không nở. Trứng trương nước sau khoảng 18-20
giờ màng nở bên ngoài sẽ nứt ra phôi xuất hiện và vẫn được bao quanh bởi màng
nở. Trong khi phôi đang treo bên dưới vỏ trứng thì phôi vẫn phát triển. Sau một
thời gian ngắn màng nở bị phá vỡ ấu trùng Nauplius được phóng thích ra ngoài.
* Giai đoạn Nauplius
Ấu trùng Nauplius mới nở có chiều dài 400-500µm, có màu vàng nâu với
điểm mắt màu đỏ nằm giữa cặp râu I. Chúng có 3 đôi phần phụ: đôi râu I có chức
năng cảm giác, đôi râu II có chức năng vận động và lọc thức ăn, đôi râu III có
chức năng nhận và gom thức ăn. Ở giai đoạn này bộ máy tiêu hoá của Artemia
chưa hoàn chỉnh, chúng sống dựa vào nguồn noãn hoàng. Sau 7-8 giờ ấu trùng
Instar II, giai đoạn này chúng đã có khả năng sử nguồn thức ăn bằng cách lọc các
hạt thức ăn có kích thước nhỏ từ 10-50µm như: tế bào tảo, vi khuẩn, chất vẩn…
bằng đôi râu II.
Hình 1.1-Vòng đời sinh trưởng của Artemia
- 7 -
* Giai đoạn Nauplius
Ấu trùng Nauplius mới nở có chiều dài 400-500µm, có màu vàng nâu với
điểm mắt màu đỏ nằm giữa cặp râu I. Chúng có 3 đôi phần phụ: đôi râu I có chức
năng cảm giác, đôi râu II có chức năng vận động và lọc thức ăn, đôi râu III có
chức năng nhận và gom thức ăn. Ở giai đoạn này bộ máy tiêu hoá của Artemia
chưa hoàn chỉnh, chúng sống dựa vào nguồn noãn hoàng. Sau 7-8 giờ ấu trùng
Instar II, giai đoạn này chúng đã có khả năng sử nguồn thức ăn bằng cách lọc các
hạt thức ăn có kích thước nhỏ từ 10-50µm như: tế bào tảo, vi khuẩn, chất vẩn…
bằng đôi râu II.
* Giai đoạn ấu niên
Ở giai đoạn này cơ thể Artemia kéo dài dần, các đôi phần phụ dần xuất
hiện ngực và biến thành chân ngực, mắt kép xuất hiện ở hai bên mắt. Từ sau lần
lột xác thứ 10 trở đi chúng có sự thay đổi lớn về hình thái và chức năng của các
đôi phần phụ râu II mất đi chức năng vận động và lọc thức ăn chuyển sang biệt
hoá giới tính. Ở con đực đôi râu II phát triển thành đôi càng lớn dung để bám vào
con cái khi cặp đôi, trong khi đôi râu II của con cái biệt hoá thành phần phụ cảm
giác. Các chân ngực được biệt hoá thành ba bộ phận chức năng: đốt gốc và nhánh
trong làm nhiệm vụ hô hấp.
* Giai đoạn trưởng thành
Artemia trưởng thành trong quần thể lưỡng tính dài khoảng 1cm và dài
khoảng 2cm trong quần thể trinh sản đa bội. Chúng có cơ thể kéo dài với hai mắt
kép, ống tiêu hoá thẳng, một đôi râu cảm giác và 11 đôi chân ngực. Từ giai đoạn
Naulius đến giai đoạn trưởng thành chúng phải trải qua 15 lần lột xác. Con đực
có đôi gai giao phối ở phần sau của vùng ngực và có đôi càng hình móc rất đặc
thù ở vùng đầu. Đối với con cái rất dễ nhận dạng nhờ vào túi ấp hoặc tử cung
nằm ngay sau đôi chân ngực thứ 11, chúng thường có kích thước lớn hơn con
đực. Artemia ở giai đoạn ở giai đoạn này bắt đầu kết cặp và tiến hành sinh sản.
- 8 -
a) Đặc điểm dinh dưỡng
Artemia là sinh vật ăn không chọn lựa. Trong tự nhiên hay ao nuôi
Artemia sinh trưởng và phát triển chủ yếu dựa vào nguồn thức ăn có sẵn trong
môi trường.Chúng sử dụng mùn bã hữu cơ, tảo đơn bào và vi khuẩn có kích
thước nhỏ hơn 50µm. Trong tự nhiên, Artemia thường hiện diện ở vùng nước có
độ mặn cao nên hiếm gặp các loài động vật dữ và các động vật cạnh tranh thức
ăn khác như luân trùng, giáp xác nhỏ ăn tảo. Nhiệt độ, thức ăn và độ mặn là
những nhân tố ảnh hưởng đến sự gia tăng mật độ của quần thể Artemia hoặc
ngay cả đến sự vắng mặt tạm thời của chúng.
Trong nghề nuôi Artemia trên ruộng muối nông dân thường sử dụng phối
hợp phân chuồng ( chủ yếu là phân gà ) kết hợp với phân vô cơ như Urê hoặc
DAP để gây màu trực tiếp trong ao nuôi hoặc gián tiếp ngoài ao bón phân trước
khi cấp nước vào trong ao nuôi. Artemia có thể sử dụng trực tiếp phân gà và các
phân hữu cơ khác khi bón vào ao nuôi. Ngoài ra, khi lượng nước tảo cung cấp
vào ao hằng ngày thiếu hụt nông dân còn sử dụng cám gạo, bột đậu nành… để
duy trì quần thể.
b) Đặc điểm sinh sản
Artemia sinh sản ở 2 dạng: đơn tính và hữu tính, trong đó dạng sinh sản
hữu tính được sử dụng rộng rãi hơn trong sản xuất.
Đối với dòng Artemia lưỡng tính khi trưởng thành con đực bắt cặp với
con cái. Con đực dung đôi càng ôm phần bụng của con cái, giao cấu và thụ tinh
cho trứng. Hoạt động này diễn ra rất thường xuyên trong hầu hết vòng đời của
chúng. Trứng phát triển trong hai buồng trứng dạng ống ở phần bụng. Khi trứng
chin có dạng cầu và di chuyển qua hai ống dẫn để vào tử cung. Thông thường
trứng được thụ tinh phát triển thành ấu trùng bơi lội ( phương thức đẻ con-
ovviviparaus) và được con cái sinh ra. Trong điều kiện bất lợi các phôi chỉ phát
triển đến giai đoạn phôi vị. Lúc này chúng sẽ được bao bọc bằng một lớp vỏ dày
(được tiết ra từ tuyến vỏ trong tử cung) biến thành trứng nghỉ hay còn gọi là trngj
thái “ tiềm sinh” và được con cái phóng thích ra ngoài.
- 9 -
J.Vos (1980) cho rằng kiểu sinh sản Artemia được kiểm soát bởi giới hạn các
yếu tố môi trường. Các yếu tố chính ảnh hưởng như sau:
Đẻ con Đẻ trứng
- Độ mặn thấp - Độ mặn cao
- Hàm lượng ôxy cao - Hàm lượng ôxy thấp
- Biên độ dao động ôxy thấp - Biên độ dao động ôxy cao
- Thức ăn nghèo sắt - Thức ăn giàu sắt
a) b) c)
Hình 1.2 a) Artemie cái và buồn trứng b) artemia đực c) ấu trùng artemia
c) Đặc điểm sinh thái và khả năng thích nghi với các điều kiện môi trường
của Artemia
Artemia là sinh vật có tính rộng muối, chúng sống được trong môi trường
nước lợ ( vài phần ngàn) cho đến nước mặn bão hoà (250 phần ngàn). Tuỳ theo
điều kiện môi trường mà chúng có đặc điểm sinh trưởng và sinh sản khác nhau.
Chủng quần thể của Artemia được tìm thấy ở trên 500 hồ nước mặn và
ruộng muối trên thế giới. Artemia được tìm thấy chủ yếu trong những ao hồ có
nồng độ muối cao (80ppt- 120ppt) đây cũng là ngưỡng chịu đựng cao nhất về
nồng độ muối của các loài sinh vật dữ. Từ 250ppt trở lên mật độ Artemia giảm
mặc dù chúng có thể sống ở nồng độ muối cao hơn nhưng nhu cầu về năng lượng
để điều hoà áp suất thẩm thấu tăng làm ảnh hưởng bất lợi đến sinh trưởng và sinh
sản của chúng , thậm chí chúng bị đói và bị chết do môi trường trở nên độc và
việc trao đổi chất cực kỳ khó khăn.
- 10 -
Mặc dù Artemia có thể sống tốt trong môi trường nước biển tự nhiên
nhưng Artemia không có cơ chế chống lại sinh vật dữ ( cá, tôm…) và cạnh tranh
với các loài ăn lọc khác nên chúng có một cơ chế thích nghi rất tốt với độ mặn
cao(80-120ppt) nơi mà hầu như các loài sinh vật dữ và sinh vật cạnh tranh không
thể tồn tại được. Sự thích nghi về sinh lý của chúng với độ mặn cao là nhờ :
- Chúng có một hệ thống điều hoà thẩm thấu cực tốt.
- Khả năng tổng hợp các sắc tố hô hấp cao nhằm thích ứng với điều kiện
O2 thấp ở nơi có độ mặn cao.
- Trong điều kiện bất lợi chúng có khả năng sản xuất ra trứng bào xác để
đảm bảo sự tồn tại của chúng trong tự nhiên.
- Các dòng Artemia khác nhau có thể thích nghi rộng với sự biến đổi của
môi trường, đặc biệt là nhiệt độ, chúng có thể thích nghi trong khoảng nhiệt độ 6-
350C. Thành phần ion của các thuỷ vực gồm Chlorid, Sunfat, Cacbonate và NaCl
là thành phần chủ yếu tạo nên các sinh cảnh Artemia ven biển và sinh cảnh nước
mặn khác nằm sâu trong đất liền, chẳng hạn hồ Great-Salt ở Mỹ.
Đối với dòng Artemia bản địa của Việt Nam đã có nhiều đặc điểm thích
nghi khác xa so với tổ tiên của chúng, đặc biệt là sự thích nghi với nhiệt độ mặc
dù chúng có nguồn gốc từ Mỹ. Điều kiện môi trường thích hợp nhất cho chúng
là:
Độ mặn : 80- 120 0/00
Nhiệt độ : 22-250C
Oxy hoà tan: cao hơn 2ppm
pH từ trung tính đến kiềm (7.0-9.0)
Trong tự nhiên hay trong ruộng muối Artemia sinh trưởng và sinh sản chủ
yếu dựa vào nguồn thức ăn sẵn có trong môi trường. Chúng ăn lọc không có tính
chọn lựa với thành phần thức ăn là các mảnh vụn hữu cơ lơ lửng trong tầng nước
và các sinh vật nhỏ như tảo vi tảo, vi khuẩn với kích thước từ 10-50µm. Trong
thực tế, do sự thiếu vắng của các sinh vật dữ và sinh vật cạnh tranh thức ăn nên
Artemia thường thấy ở những hệ thống độc canh lớn.
- 11 -
1.1.3 Vai trò của Artemia
a) Vai trò của Artemia trong nuôi trồng thuỷ sản
Artemia được biết đến vào những năm 30 của thập kỷ 20 khi người ta phát
hiện ra chúng là loài thức ăn sống có giá trị dinh dưỡng cao cho việc ương nuôi
giống các loài thuỷ sản như tôm, cá, động vật than mềm. Artemia có thể đáp ứng
rất tốt nhu cầu dinh dưỡng cho giai đoạn ấu trùng của các loài tôm cá.
Hiện nay tại các trại sản xuất giống, ấu trùng Artemia được sử dụng rộng rãi nhất
bởi những lý do sau:
Giá trị dinh dưỡng cao ( protein, axit béo không no HUFA cao)
Sẵn có trên thị trường dưới dạng trứng bào xác
Không phụ thuộc mùa vụ, thời tiết và có thể thu với số lượng lớn (trứng
bào xác nở sau 24 giờ tính từ khi ấp)
Có thể khống chế được bệnh cho ấu trùng nuôi( xử lý ấu trùng Artemia
trước khi cho ăn hoặc sử dụng chúng như một bao sinh học để chứa các
dinh dưỡng, đặc biệt là thuốc phòng trị bệnh chuyển tới ấu trùng nuôi).
Con non và con trưỏng thành của Artemia được sử dụng làm thức ăn trong
ương nuôi tôm cá, cua và các loài thuỷ hải sản khác không chỉ vì giá trị dinh
dưỡng tối ưu của chúng ( chứa gần 70% đạm) mà còn bởi những lợi ích về năng
lượng. Do đó ấu trùng có thể sinh trưởng tốt hơn hoặc điều kiện sinh lý được cải
thiện như đã chứng minh trong việc nuôi ấu trùng của tôm hùm, cá mahi, cá bơn,
cá chẽm. Đối với ấu trùng cá chẽm Lates calcarifer việc sử dụng sinh khối
Artemia làm thức ăn trong trại giống và trại ương đã tiết kiệm được một lượng
trứng Artemia đáng kể ( lên tới 60%), do đó làm giảm được chi phí về thức ăn
cho ấu trùng đồng thời làm giảm sự ăn thịt lẫn nhau trong giai đoạn đầu ương
nuôi tôm hùm.
Việc sử dụng trực tiếp ấu trùng Artemia đã được nhiều tác giả ghi nhận:
O.Kinne (1976) cho rằng ấu trùng cá và giáp xác như tôm cua đều sử dụng với số
lượng lớn. Vanolst (1976) đã nhận thấy giai đoạn ấu trùng của nhiều đối tượng
thuỷ sản có giá trị kinh tế cao cũng sử dụng Nauplius của Artemia như là khẩu
- 12 -
phần cơ sở ban đầu. Ấu trùng các loài tôm biển sử dụng Nauplius như là khẩu
phần bắt buộc trong tuần lễ đầu tiên, sau đó mới kết hợp các loại thức ăn khác.
Artemia than mềm với lớp vỏ mỏng, chúng bơi lội chậm chạp trong môi
trường nước, có màu sắc hấp dẫn, trong nước ngọt có thể sống 8 giờ. Chính vì
vậy Artemia là thức ăn chủ yếu và lý tưởng cho ấu trùng các loài tôm cá ở giai
đoạn phát triển sớm. Artemia không chỉ có giá trị sử dụng tiện lợi mà chúng còn
có giá trị dinh dưỡng cao: hàm lượng protein chiếm 62% và 27% lipit (tính theo
trọng lượng khô)… Trong nuôi Artemia thu sinh khối thì Artemia trưởng thành
được quan tâm nhiều hơn do có kích thước lớn hơn 20 lần và khối lượng nặng
hơn 500 lần ấu trùng Artemia mới nở đồng thời thành phần dinh dưỡng của nó
cũng chứa đầy đủ các axitamin cần thiết như: histidine, methionine, phenyllanine
và threonine mà ở ấu trùng Nauplius không có.
Hiện nay, việc sử dụng sinh khối Artemia vẫn chưa được chấp nhận ở
mức độ công nghiệp do hạn chế về tính thời vụ và số lượng sinh khối tươi cũng
như sinh khối đông lạnh chi phí cao, chất lượng biến động. Ở Việt Nam, mức độ
sử dụng sinh khối vẫn chỉ ở mức độ thí nghiệm và thử nghiệm là thức ăn cho ấu
trùng tôm càng xanh, tôm cua biển và cá cảnh ở dạng tươi sống, đông lạnh và
thức ăn chế biến chứ không dùng có sản phẩm khô vì giá thành quá đắt.
b) Vai trò của Artemia trên ruộng muối
Nước ta có đường bờ biển dài nên nghề làm muối khá phổ biến. Tuy
nhiên, nghề làm muối mang lại hiệu quả kinh tế thấp và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DC_donggoi_Artemia.pdf
- ban_ve.rar