Từ ngày 12/1/2011 đến ngày 19/1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã thông qua nhiều văn
kiện quan trọng, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020; Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Nhiều chủ đề nêu trong các văn kiện này
đang được các cơ quan, ban, ngành triển khai quán triệt và học tập nhằm đưa Nghị
quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập và
phân tích một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được đưa ra trong các văn kiện này.
Trong công cuộc đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã xác định Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được xây dựng, tổ chức và vận hành
theo thể chế Nhà nước pháp quyền.(*)Đây là chủ trương, đường lối có tính chiến
lược của Đảng, xuất phát từ yêu cầu tất yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và
phát triển đất nước. Những yêu cầu tất yếu, khách quan đó bao gồm: Một là, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của
tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ.
108 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4091 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số điểm mới về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện đại hội XI của Đảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM QUA VĂN KIỆN ĐẠI
HỘI XI CỦA ĐẢNG
Khẳng định bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Đại hội XI, trong bài viết này,
tác giả đã đưa ra và phân tích những điểm mới ấy. Đó là: 1, Về các đặc trưng cơ
bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; 2, Thực tiễn quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua;
3, Những giải pháp cụ thể cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ ngày 12/1/2011 đến ngày 19/1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã thông qua nhiều văn
kiện quan trọng, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020; Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Nhiều chủ đề nêu trong các văn kiện này
đang được các cơ quan, ban, ngành triển khai quán triệt và học tập nhằm đưa Nghị
quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập và
phân tích một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được đưa ra trong các văn kiện này.
Trong công cuộc đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã xác định Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được xây dựng, tổ chức và vận hành
theo thể chế Nhà nước pháp quyền.(*)Đây là chủ trương, đường lối có tính chiến
lược của Đảng, xuất phát từ yêu cầu tất yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và
phát triển đất nước. Những yêu cầu tất yếu, khách quan đó bao gồm: Một là, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của
tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Hai là, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu quản lý và phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu phát triển xã hội theo hướng dân chủ,
hài hòa và bền vững.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bản chất là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân chính là nhân tố không thể thiếu trong việc đảm bảo
sự ổn định chính trị, giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội, tạo điều kiện cho người dân
thực hành các quyền tự do dân chủ, hướng tới xây dựng một đất nước dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó
đồng thời cũng là những phẩm chất đảm bảo cho xã hội phát triển theo hướng dân
chủ, hài hòa và bền vững.
Từ những yêu cầu trên đây, bắt đầu từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII (tháng 01/1994), Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng khái niệm Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và khẳng định sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước
pháp quyền như một điều kiện không thể thiếu để phát triển nền dân chủ thực sự vì
nhân dân. Trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: “Nhà nước ta là công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”(1). Từ Nghị quyết Đại hội IX, tại
Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(2). Trong
Văn kiện Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả
thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ
quan công quyền”(3).
Từ nhận thức lý luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp
quyền nói chung và từ thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua các văn kiện Đại hội của Đảng, có thể khái
quát những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
theo quan điểm của Đảng ta: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp; Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật,
pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; Nhà nước tôn
trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý
giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật; Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Qua khảo sát, tìm hiểu vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bắt
đầu từ Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng
01/1994) cho đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, trên cơ sở đối
chiếu, so sánh với Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, có thể rút ra một
số điểm mới được nêu trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Thứ nhất, quan niệm về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã được thể hiện tại các văn kiện, nghị quyết khác nhau của Đảng và
trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Trong Văn kiện Đại hội XI, các đặc trưng
cơ bản đó đã được khái quát một cách cô đọng, tập trung tại một luận điểm về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể, trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) có ghi
rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp
luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân,
tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế
và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô
trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
có sự phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung
ương”(4).
So sánh với quan niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được nêu trong
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, có thể khẳng định rằng, luận điểm
được nêu trong Văn kiện Đại hội XI là luận điểm thể hiện đầy đủ và tập trung nhất
các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cái mới
của luận điểm trên thể hiện ở chỗ, Đảng ta đã nhấn mạnh rằng, chức năng của Nhà
nước là phục vụ nhân dân; khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Nhà nước
với nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe
ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hơn nữa, Nhà nước còn phải
có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Có thể
coi đây là sự bổ sung thêm một đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam nhằm khẳng định bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta.
Thứ hai, đối chiếu giữa Báo cáo chính trị tại các Đại hội IX, Đại hội X với Báo cáo
chính trị tại Đại hội XI, chúng ta thấy rằng, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX,
Đảng ta chỉ dành một mục nhỏ “1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng” ở phần “IX- Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động
của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”(5) để nói về vấn đề xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội X, vấn
đề này được đề cập tại mục “2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” ở phần “XI- Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(6). Còn trong Báo cáo chính trị tại Đại
hội XI, Đảng ta đã dành hẳn một phần “XI- Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để chuyên bàn về vấn đề này. Điều đó cho thấy,
trước hết, về mặt hình thức trình bày, Đảng ta đã dành sự chú ý thỏa đáng và sự quan
tâm sâu sắc hơn đối với vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Thứ ba, đánh giá về thực tiễn quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong những năm qua, Văn kiện Đại hội XI đã ghi nhận: “Việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động
được nâng lên”(7). Tuy nhiên, Đại hội XI cũng thẳng thắn, nghiêm túc đánh giá, chỉ
ra những hạn chế, khuyết điểm: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”. Những hạn chế cụ thể
được chỉ ra trong Văn kiện Đại hội XI là: “Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều
hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa
hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ
quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính
chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu;
phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không
nghiêm...”(8). Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên đây, như Văn kiện
Đại hội XI đã chỉ ra, ngoài các nguyên nhân khách quan, nhưng trực tiếp và quyết
định nhất vẫn là các nguyên nhân chủ quan, như công tác nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn nói chung, thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công
cuộc đổi mới, trong đó có vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
còn hạn chế, thiếu thống nhất. “Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành
của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết,
dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng
lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất
cập”(9). Các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và khả thi chưa được xác định đầy đủ, rõ
ràng và chậm được triển khai trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam... Việc chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như nguyên nhân của
những hạn chế, khuyết điểm đó là một điểm mới trong Văn kiện Đại hội XI cần được
ghi nhận; bởi lẽ, trong các văn kiện, nghị quyết trước đây, vấn đề này hầu như chưa
được đề cập đến. Đây cũng chính là cơ sở khoa học, thực tiễn để Đảng ta đề ra những
nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp cơ bản cần triển khai nhằm đẩy mạnh quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm tới.
Thứ tư, từ việc tập trung xác định rõ các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của việc xây dựng
Nhà nước đó trong thời gian qua, trong Văn kiện Đại hội XI, lần đầu tiên, Đảng ta
xác định rõ những giải pháp cụ thể cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những giải pháp
cụ thể gồm:
1. Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trước tiên, phải nâng cao nhận thức về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: không chỉ là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, mà còn phải “bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”; không chỉ là Nhà nước quản lý, điều
hành theo pháp luật, mà còn phải “nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà
nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương”;
không chỉ là nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà còn phải
“nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”; không chỉ là đề cao vai trò
của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, mà còn phải “tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt
các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”(10)... (những chữ in nghiêng là
do tác giả nhấn mạnh). Điểm mới ở đây là, cùng với yêu cầu nâng cao nhận thức về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI còn
chỉ ra những nhiệm vụ thiết thực, cụ thể nhằm từng bước hiện thực hóa việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
Đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước là khâu then chốt đảm bảo sự
thành công của việc xây dựng, sự vận hành có hiệu lực, hoạt động có hiệu quả cao
của Nhà nước pháp quyền xã hội hội nghĩa Việt Nam. Với ý nghĩa đó, Văn kiện Đại
hội XI đã đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy
nhà nước:
Thứ nhất, “đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đảm bảo Quốc hội thực sự là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất...”.
Muốn đạt được mục đích đó, công tác bầu cử đại biểu Quốc hội cần có sự đổi mới,
hoàn thiện về cơ chế để cử tri có thể lựa chọn và bầu được những người đủ đức, đủ
tài, xứng đáng trở thành đại biểu của nhân dân trong Quốc hội. Thực tiễn công tác
chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa XIII đang đặt ra yêu cầu này. Vấn đề gia tăng tính
dân chủ, công khai, đối thoại trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở trong các phiên thảo
luận và hoạt động chất vấn trên diễn đàn Quốc hội cũng phải được chú trọng và tăng
cường hơn nữa.
Thứ hai, “tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước
hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng
tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống...”. Đây cũng đang là đòi hỏi cấp thiết của
thực tiễn đời sống pháp luật, khi mà các luật, pháp lệnh của Nhà nước cứ phải
thường xuyên sửa đổi, bổ sung. Để nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật
thì cần phải tăng cường hoạt động khảo sát thực tiễn các quan hệ xã hội đang cần có
pháp luật điều chỉnh; làm thật tốt công tác dự báo pháp luật.
Thứ ba, “nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để
thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối
ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Từ sự nghiên cứu đó, có lẽ,
việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) theo
hướng mở rộng, tăng thêm thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước là một giải
pháp cần được tính đến.
Thứ tư, “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng
nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh; có hiệu lực, hiệu quả;
tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của
Chính phủ...”. Chính phủ là cơ quan hành pháp nên có vai trò quan trọng hàng đầu
trong hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Năng lực của chính phủ,
của từng thành viên chính phủ trong việc dự báo, ứng phó, giải quyết nhanh chóng,
kịp thời, đúng pháp luật những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng... mới nảy sinh sẽ là điểm mấu chốt trong thực hiện giải pháp này.
Thứ năm, “đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và
bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân...”. Thực tế cho
thấy, dù đã thúc đẩy mạnh mẽ, quyết liệt tiến trình cải cách hành chính, trong đó có
các thủ tục hành chính; song, kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng sự mong đợi của
nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang
đặt ra đòi hỏi phải chuyển hoàn toàn từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính vì
dân, phục vụ nhân dân.
Thứ sáu, “đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây
dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người...”. Đối với nội dung này, Văn kiện Đại hội XI nêu ra một loạt vấn
đề cần tập trung làm tốt hơn trong thời gian tới, như hoàn thiện tổ chức bộ máy các
cơ quan tư pháp; đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan,
tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp; đổi mới hệ thống tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra; nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp...
Thứ bảy, “tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương...”(11);
trong đó, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân các cấp phải là vấn đề được chú trọng hàng đầu; đồng thời, tiếp tục
thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường.
Thực ra, những giải pháp cụ thể trên đây đã từng được Đảng ta đề cập trong các Văn
kiện Đại hội IX và X, nhưng chúng không gắn liền với vấn đề xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc đưa tất cả các giải pháp trên tập trung vào phần
“XI- Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trong
Văn kiện Đại hội XI cho thấy, Đảng ta quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, mạnh
mẽ việc đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước - một trong những nhân tố
đảm bảo cho việc xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Đây cũng là một điểm mới của Văn kiện Đại hội XI.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu
trong tình hình mới
Đội ngũ cán bộ, công chức là khâu chủ yếu thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải được đội ngũ cán bộ, công chức triển
khai t