Bằng những số phận riêng, cuộc đời riêng, qua tiểu thuyết Chuyện làng Cuội, nhà văn đã
soi chiếu hiện thực dưới nhiều chiều kích khác nhau. Những trang tiểu thuyết của ông vì thế, ánh
hào quang dường như nhạt dần và có khi mất hẳn. Thay vào đó là chất đời tư của mỗi số phận,
mỗi cuộc đời với những lấm lem đời thường nhất. Và đấy chính là một trong những điều mới mẻ
mà Lê Lựu đóng góp cho nền tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới.
5 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3096 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết của Lê Lựu trong "chuyện làng cuội", để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010
183
NHỮNG ĐỔI MỚI NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU
TRONG “CHUYỆN LÀNG CUỘI”
RENOVATIONS OF LE LUU’S NOVEL FEATURES
IN “CUOI VILLAGE’S TALE”
SVTH: Vũ Xuân Triệu
Lớp 06CVH2, Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư Phạm
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Phong Nam
Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư Phạm
TÓM TẮT
Bằng những số phận riêng, cuộc đời riêng, qua tiểu thuyết Chuyện làng Cuội, nhà văn đã
soi chiếu hiện thực dưới nhiều chiều kích khác nhau. Những trang tiểu thuyết của ông vì thế, ánh
hào quang dường như nhạt dần và có khi mất hẳn. Thay vào đó là chất đời tư của mỗi số phận,
mỗi cuộc đời với những lấm lem đời thường nhất. Và đấy chính là một trong những điều mới mẻ
mà Lê Lựu đóng góp cho nền tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới.
ABSTRACT
By its own destinies, personal lives in “Cuoi village’s tale”, Le Luu has reflected the reality
in many different dimensions. The halo of his novel’s pages, therefore, seems to gradually fade and
sometimes clear away. Instead, that is the privacy of its own destinies, personal lives with
spattering of daily life. And that is one of the new things that Le Luu contributes to Vietnam novels
in the innovation era.
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Kể từ sau năm 1975, Văn học Việt Nam đứng trước nhu cầu mở rộng hơn nữa
trong việc phản ánh mọi mặt cuộc sống đa dạng và phức tạp, khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn nhạt dần và được thay thế bởi cảm hứng đời tư thế sự. Các vấn đề về cuộc
sống, giá trị đạo đức, ý thức dân chủ, về cái tôi… đã trở thành chủ đề nổi bật khiến cho văn
học càng đổi mới mạnh mẽ. Người ta hình dung lại con người, thay đổi cách miêu tả, sử
dụng ngôn ngữ, giọng điệu mới.
Trước thực tế đầy biến động của lịch sử, tiểu thuyết “Chuyện làng Cuội” của Lê
Lựu ra đời như một bức tranh sinh động, khắc hoạ chân thực những tháng ngày đất nước
trong thời kỳ đổi mới. Tìm hiểu tác phẩm kể trên, ta sẽ hiểu thêm về thể loại tiểu thuyết
của một thời kỳ văn học sôi động. Đồng thời qua đó hiểu được những đóng góp của nhà
văn cho nền tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này.
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về Lê Lựu và các sáng tác của ông nói chung, tiểu thuyết “Chuyện làng
Cuội” nói riêng có nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí. Những bài viết ấy hầu hết
được tác giả tuyển chọn đưa vào cuốn Tạp văn của mình một cách khá đầy đủ. Tiêu biểu
có một số bài viết như: “Lê lựu” – trích Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa;
“Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới” của tác giả Đỗ Hải Ninh …
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010
184
1.3. –
Dựa vào đặc điểm thể loại tiểu thuyết và các tác phẩm, trong đề tài này chúng tôi cố
gắng chỉ ra những chuyển biến về quan niệm con người, những trăn trở tìm tòi… trên trang
viết của nhà văn Lê Lựu. Đề tài sẽ không đi vào toàn bộ tác phẩm của ông mà chỉ tập trung
vào một tác phẩm thời kỳ đổi mới, đó là: Chuyện làng Cuội (1991)
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong công trình này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau: Phương
pháp lịch sử – xã hội; Phương pháp so sánh; Phương pháp phân tích.
1.5. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài được cấu trúc
gồm hai chương chính.
Chương một: Lê lựu và tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
Chương hai: Những nét đặc sắc của tiểu thuyết “Chuyện làng Cuội”
2. Nội dung
2.1. Chương một NHÀ VĂN LÊ LỰU VÀ TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI
MỚI
2.1.1. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
a.
Có thể hiểu tiểu thuyết là: “hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận
đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể
chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả
cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [14, tr.387].
b. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
Cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết thời kỳ này là cảm hứng lãng mạn cách mạng.
Gạt ra ngoài những vướng bận đời thường, những nỗi buồn cá nhân, vượt lên trên những
hy sinh mất mát, văn xuôi giai đoạn này phản ánh khí thế hào hùng, những chiến công hiển
hách của dân tộc, hướng con người về phía ánh sáng và tương lai.
c. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
Văn học đã thực sự được cởi trói, cho nên chủ đề, đề tài được mở rộng, không bị gò
ép, không bị giới hạn. Văn học đã tìm về với “con người đời thường”, “con người cá nhân”
nhưng vẫn “mới”, vẫn không dẫm chân lên lối cũ mà đầy sáng tạo trong sự vận động
không ngừng của cuộc sống mới. Văn học được trả lại “thiên chức” của mình trong việc
phản ánh đời sống và điều ấy tạo nên giọng điệu đa thanh trong mỗi tác phẩm, trong từng
tác giả.
2.1.2. Sự nghiệp sáng tác văn học của Lê Lựu
a. Vài nét về tác giả
Nhà văn Lê Lựu sinh ngày 12/12/1942 tại một làng ngoài đê sông Hồng, thôn Mẫn
Hoà, xã Tân Châu, huyện Khoái Châu - Hưng Yên. Ông hiện nay đang đảm nhiệm chức
Giám đốc của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân tại Hà Nội.
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010
185
b. Sự nghiệp sáng tác
Trước khi trở thành nhà tiểu thuyết có tên tuổi, Lê Lựu đã từng là một cây bút
truyện ngắn. Là một nhà văn - chiến sỹ, trực tiếp đứng trong hàng ngũ của những anh lính
cụ Hồ, nếm trải bao nhiêu đắng cay của cuộc chiến tranh, cho nên sáng tác của ông thường
in đậm dấu ấn chiến tranh và chất chứa bao suy tư trăn trở về tình người, tình đời. Tác
phẩm tiểu biểu của ông: Người cầm súng (1970) - giải nhì báo Văn nghệ; Mở rừng (1976);
Thời xa vắng (1986) - giải A Hội nhà văn Việt Nam; Chuyện làng Cuội (1991); Sóng ở đáy
sông (1994); Truyện ngắn Lê Lựu (2003).
2.2. Chương hai NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC CỦA TIỂU THUYẾT “CHUYỆN LÀNG
CUỘI”
2.2.1. Tóm tắt tác phẩm “Chuyện làng Cuội”
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời đầy đau khổ của bà Đất. Chuyện bắt đầu và kết
thúc bằng cái chết của bà. Từ đấy, tác giả cho các nhân vật tái hiện lại dòng quá khứ thông
qua những mối tình.
2.2.2. Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca
a. Khái niệm cảm hứng - Cảm hứng bi kịch
Tác phẩm nghệ thuật chính là kết quả của cảm hứng. Điều này được Nguyễn Văn
Hạnh, Huỳnh Như Phương triển khai một cách cụ thể và đi đến kết luận: “Cảm hứng là sự
thiết tha và nhiệt tình nồng cháy gợi nên bởi một tư tưởng nào đó” [7, tr.208- 209].
Cuộc sống con người là thế giới muôn màu, chính vì thế, cảm hứng cũng mang
nhiều dạng thức khác nhau. Có cảm hứng bi kịch, cảm hứng hài kịch, cảm hứng lãng mạn,
cảm hứng châm biếm...
b. Cảm hứng bi kịch trong văn học Việt Nam trước và sau thời kỳ đổi mới
Nói đến cảm hứng bi kịch trong văn học Việt Nam “trước thời kỳ đổi mới” là nói
đến một chặng đường dài mà tác phẩm đầu tiên chính là truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng
Thủy... Cảm hứng bi kịch được tiếp nối trong nền văn học viết cho đến trước năm 1945, ở
giai đoạn này bi kịch chính là mối xung đột giữa khát vọng chính đáng riêng tư của con
người và khả năng không thể thực hiện được những khát vọng đó trong cuộc sống.
Văn học giai đoạn từ 1945 đến trước thời kỳ đổi mới với nhiệm vụ động viên cổ vũ
nên được viết hoàn toàn bởi chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng bi kịch hầu như
không xuất hiện, không được khơi nguồn.
Sau năm 1986, văn học ở giai đoạn này không chỉ có bi kịch của sự mất mát mà các
nhà văn thời kỳ đổi mới còn khắc hoạ tấn bi kịch lạc lõng của người lính sau cuộc chiến.
Không chỉ dừng lại mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, văn học thời kỳ đổi mới
còn khám phá bi kịch trong mối quan hệ giữa con người với con người ở những cung bậc
khác nhau.
c. Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết “Chuyện làng Cuội”
Nhà văn Lê Lựu đã khắc hoạ đậm nét những bi kịch xuất phát từ hoàn cảnh xã hội.
Bà Đất - nhân vật chính của tiểu thuyết Chuyện làng Cuội rơi vào thảm kịch hoàn toàn do
hoàn cảnh mang lại. Bằng cảm hứng bi kịch, Lê Lựu đã tinh tế khám phá tận cùng chiều
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010
186
sâu của nỗi đau mà người phụ nữ đáng thương ấy phải trải qua. Từng dòng chữ như thấm
đẫm nước mắt của người cầm bút. Nhà văn đã đẩy bi kịch lên đến đỉnh điểm bằng cái chết
đầy bất ngờ và “không bình thường” chút nào của người mẹ đáng thương.
2.2.3. Một cách nhìn mới về hiện thực nông thôn Việt Nam
Ở tác phẩm Chuyện làng Cuội, những sắc màu khác nhau của bức tranh làng quê
Việt Nam được nhà văn phản ánh khá sắc nét. Lần theo cuộc đời của mỗi nhân vật, “sắc
màu nông thôn” cứ hiển hiện một cách tự nhiên, ăm ắp sức sống. Hơn thế nữa, những tập
tục, lề thói, phong vị, tập quán của làng quê Việt Nam được miêu tả một cách chân thực
với một chất giọng đằm thắm, yêu thương hồn hậu.
2.2.4. Sự đổi mới trong kết cấu tác phẩm
a. Tình huống truyện
Khi đọc Chuyện làng Cuội của Lê Lựu, chúng ta thấy nơm nớp lo sợ, hồi hộp cho
số phận của nhân vật. Và dường như đã mở những trang sách đầu tiên thì không ai có thể
gấp sách lại mà phải tiếp tục đọc, tiếp tục theo dõi diễn biến câu chuyện. Có được điều này
là do tác giả đã khéo léo xây dựng những tình huống truyện bất ngờ, gay cấn.
b. Kết thúc truyện
Trong tác phẩm, ta nhận thấy nhà văn đã gây được sự bất ngờ cho người đọc trong
cách kết thúc tác phẩm. Với kiểu kết này thực sự đã cho người đọc cảm giác yên lòng vì
nhân vật mà mình yêu thích cuối cùng cũng về được “bến đỗ”.
2.2.5.
a. Giọng điệu hài hước, trào tiếu
Có thể nói giọng điệu hài hước là một trong những chất giọng được Lê Lựu thể
hiện đậm nét trong tác phẩm của mình. Chính chất giọng đó đã giúp nhà văn đưa những
yếu tố của văn học trào tiếu dân gian vào tác phẩm. Chính chất giọng hài hước tếu táo giúp
cho tác phẩm của ông gần gũi hơn với bạn đọc. Ở đó, không còn chỗ cho giọng điệu sử thi,
mà ngôn ngữ suồng sã đời thường được nhà văn sử dụng một cách tài tình, đậm nét, nhiều
hơn trong các tác phẩm.
b. Giọng triết lý, ngậm ngùi xót thương
Ngoài giọng hài hước hóm hỉnh tạo nên những trang viết “sắc ngọt”, “lém lỉnh”, Lê
Lựu còn trần thuật với chất giọng triết lý, ngậm ngùi xót thương. Chất giọng này thường là
trần thuật những suy nghĩ của nhân vật và chính giọng điệu mang tính suy tư triết lý đã góp
phần làm cho sức khái quát của tác phẩm sâu sắc hơn.
3. Kết luận
Có thể nhận thấy chính những thay đổi quan niệm về cách nhìn hiện thực, con
người cũng như những nỗ lực trong sáng tạo nghệ thuật khiến tác phẩm của Lê Lựu thời kỳ
đổi mới đã góp phần tích cực trong việc đổi mới nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Về mặt nội dung, ta thấy rằng, với cái nhìn sắc bén, Lê Lựu thực sự đã có những
đóng góp to lớn cho nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Chuyện làng Cuội đã đối thoại
được với cuộc sống. Hơn thế nữa, những nhân vật như bà Đất, Lưu Minh Hiếu… vừa
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010
187
mang những nét riêng lại vừa mang tính khái quát sâu sắc đặc điểm của một lớp người
thuộc “thời xa vắng”.
Về mặt nghệ thuật, chúng ta thấy rõ, dường như chuyển động đằng sau các sự
kiện, sự việc là dòng tư tưởng, là những chiêm nghiệm mà ông muốn gửi gắm tới bạn đọc.
Đặc biệt, những tư tưởng ấy được người cầm bút khéo léo đưa vào giữa các dòng, các
chương, giữa các sự kiện, chi tiết ngồn ngộn của đời sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
[2] (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, H.
[3] Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học - vấn đề và suy
nghĩ, Nxb Giáo dục, H.
[4] Trần Đăng Khoa (1994), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh Niên.
[5] Nguyễn Văn Long, Nguyễn Đăng Mạnh (đồng chủ biên) (2002), Lịch sử văn học Việt
Nam (Tập 3), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
[6] Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà (1987), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H.
[7] Lê Lựu (2003), Tạp văn, Nxb Văn hoá thông tin, H.
[8] Lê Lựu (2006), Chuyện làng Cuội, Nxb Văn học, H.
[9] Đỗ Hải Ninh (2006), “Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu Văn
học, số 7- 2006.
[10] Nguyễn Khắc Sính (2008), “Đi tìm phong cách chung của Văn học”, Tạp chí nghiên
cứu Văn học, số 2-2008.