Nhũng yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiên nay và hướng hoàn thiện

Thuế tiêu thụ đặc biệt bắt đầu được đưa vào áp dụng ở Việt Nam từ năm 1990. Cùng với sự thay đổi của hoàn cảnh đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế, nhận của người dân về pháp luật cũng cao hơn. Do đó, để bảo đảm cho những quy định của pháp luật được ban hành phù hợp với thực tế, pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần. Bên cạnh đó, việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở nước ta còn dựa vào nhiều yếu tố. Việc tìm hiểu những yếu tố đó là cần thiết và quan trọng trong giai đoạn nền kinh tế đất nước ta hiện nay, và cũng để việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt được toàn diện hơn. Do vậy, bài viết này em xin được đề cập đến vấn đề : phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt và ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế.

doc17 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4205 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhũng yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiên nay và hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU:……………………………………………………………... 1 NỘI DUNG:……………………………………………………………….. 1 A. Khái quát chung về Thuế tiêu thụ đặc biệt:………………………….. 1 1. Khái niệm:………………………………………………………………... 1 2. Đặc điểm:………………………………………………………………… 1 3. Tầm quan trọng của thuế tiêu thụ đặc biệt:………………………………. 2 B. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay ……………………………………….. 2 I. Những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước……… 2 II. Yếu tố kinh tế……………………………………………………………. 3 III. Yếu tố xã hội……………………………………………………………. 4 IV. Trình độ năng lực quản lý của bộ máy quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt…. 4 V. Yếu tố tâm lý……………………………………………………………. 5 1. Tâm lý và lợi ích cá nhân………………………………………………. 6 2. Nhận thức cá nhân và sự trợ giúp……………………………………… 6 3.Mục tiêu đồng thuận với mục đích cá nhân…………………………….. 7 VI. Mức đồng bộ và hoàn thiện của hệ thống pháp luật nước ta……………. 7 C. Thực trạng thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay…………………………………………………… 8 I. Những thành tựu đạt được……………………………………………….. 8 II. Những hạn chế…………………………………………………………… 9 1. Về mức độ linh hoạt của thuế tiêu thụ đặc biệt ……………………….. 9 2. Về đối tượng chịu thuế…………………………………………………. 9 3. Về thuế suất…………………………………………………………….. 10 4. Về vấn đề miễn giảm thuế……………………………………………… 10 5.Về giá tính thuế…………………………………………………………. 10 6. Về công tác quản lý thu nộp thuế………………………………………. 11 III. Những ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. 11 KẾT LUẬN ……………………………………………………………… 15 LỜI MỞ ĐẦU Thuế tiêu thụ đặc biệt bắt đầu được đưa vào áp dụng ở Việt Nam từ năm 1990. Cùng với sự thay đổi của hoàn cảnh đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế, nhận của người dân về pháp luật cũng cao hơn. Do đó, để bảo đảm cho những quy định của pháp luật được ban hành phù hợp với thực tế, pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần. Bên cạnh đó, việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở nước ta còn dựa vào nhiều yếu tố. Việc tìm hiểu những yếu tố đó là cần thiết và quan trọng trong giai đoạn nền kinh tế đất nước ta hiện nay, và cũng để việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt được toàn diện hơn. Do vậy, bài viết này em xin được đề cập đến vấn đề : phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt và ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế. NỘI DUNG A. Khái quát chung về thuế tiêu thụ đặc biệt 1. Khái niệm Hiện nay trên thực tế, chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh mang tính chất pháp lý về thuế tiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên, dựa trên những đặc điểm và vai trò của loại thuế này, chúng ta có thể hiểu một cách thông thường và khái quát rằng : Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu, đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ đặc biệt thuộc đối tượng chịu thuế theo qui định của luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế được cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ và do người tiêu dùng chịu khi mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ. Việc coi hàng hoá, dịch vụ có đặc biệt hay thông thường ở mỗi nước có sự khác nhau xuất phát từ khía cạnh kinh tế - xã hội như: chính sách điều tiết, hướng dẫn sản xuất tiêu dùng, phong tục tập quán tiêu dùng của mỗi nước. Ngay trong một nước việc coi 1 hàng hoá dịch vụ có tính chất đặc biệt hay thông thường trong từng thời kì cũng có sự khác nhau do sự thay đổi của đường lối kinh tế, sự phát triển của thị trường. 2. Đặc điểm Về bản chất, thuế tiêu thụ đặc biệt cũng là một loại thuế gián thu, do người tiêu dùng chịu. Ngoài những đặc điểm của thuế nói chung thuế tiêu thụ đặc biệt còn những đặc điểm riêng biệt sau: Thứ nhất: Thuế tiêu thụ đặc biệt có diện đánh thuế hẹp. Tuỳ theo quan điểm của các nhà làm luật ở mỗi quốc gia mà danh mục hàng hoá dịch vụ phải chịu loại thuế này có thể rất khác nhau. Điều này được lí giải bởi chủ trương chính sách của nhà nước trong việc hướng dẫn sản xuất tiêu dùng cũng như trong lĩnh vực điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư ở từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội và phong tục tập quán của mỗi nước. Thứ hai: Thuế suất tiêu thụ đặc biệt có thể là thuế suất cố định hoặc thuế suất tỉ lệ và thường cao hơn so với thuế suất các loại thuế gián thu khác. Thứ ba: Thuế tiêu thụ đặc biệt thường chỉ thu một lần ở khâu sản xuất hoặc nhập khẩu. 3. Tầm quan trọng của thuế tiêu thụ đặc biệt Dựa vào những đặc điểm trên, những ảnh hưởng và tầm quan trọng của thuế tiêu thụ đặc biệt được thể hiện như sau: - Thông qua chế độ thu thuế tiêu thụ đặc biệt, nhà nước động viên một phần thu nhập đáng kể của người tiêu dung vào ngân sách nhà nước. - Thuế tiêu thụ đặc biệt là công cụ rất quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng hướng dẫn sản xuất và điều tiết tiêu dùng xã hội. - Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng là công cụ để nhà nước điều tiết thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước một cách công bằng hợp lý: ai tiêu dùng nhiều các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì nộp thuế nhiều hơn người tiêu dùng ít hoặc không phải nộp thuế nếu không tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ đó. - Việc ban hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt để điều chỉnh việc sản xuất, kinh doanh, lưu thông và tiêu dùng một số hàng hóa, dịch vụ mang tính chất xa xỉ, chưa thật cần thiết cho nhu cầu xã hội thể hiện sự tăng cường quản lý, kiểm soát của nhà nước một cách tập trung, chặt chẽ đối với các loại hàng hóa, dịch vụ này. B. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luât thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay. I. Những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Pháp luật là cụ thể hóa đường lối, cơ sở phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Bởi vậy, tất cả các văn bản pháp luật được ban hành đều phải dựa trên đường lối, cơ sở của Đảng và Nhà nước, lấy đó làm thước đo, làm kim chỉ nam để cụ thể hóa nó, đưa nó vào đời sống xã hội. - Thông qua thuế tiêu thụ đặc biệt, nhà nước thực hiện chính sách quản lý đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh đối với một số hàng hoá, dịch vụ; là công cụ kinh tế để nhà nước điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, hướng dẫn tiêu dùng hợp lí. Chẳng hạn những mặt hàng nhà nước thấy rằng việc sử dụng thuốc lá ảnh hưởng không tốt đối với sức khoẻ người dân nên đánh thuế rất cao đối với sản phẩm này ( 65%)… - Các chính sách chủ trương của Đảng và nhà nước có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi pháp luật về thuế. Nếu các chính sách thuế phù hợp với hoàn cảnh điều kiện thực tế của đất nước thì pháp luật về thuế được tôn trọng và tuân theo. Các quy định về thuế đánh quá nhẹ ảnh hưởng trực tiếp đến ngân sách nhà nước, tuy nhiên nếu các quy định về pháp luật thuế quá hà khắc, nặng nề dễ dẫn đến tư tưởng “làm liều” của người dân chính sách về thuế không đảm bảo. Vì vậy, Đảng và nhà nước cần cân nhắc hợp lí các quy định của pháp luật với thực tiễn của đất nước. Thế nhưng, nhà nước chỉ ban hành ban hành các quy định pháp luật thể hiện đường lối, chủ trương của mình chưa đủ để người dân tuân thủ theo. Vì vậy, nhà nước ban hành các biện pháp chế tài mạnh đối với những người không thực hiện đúng theo quy định thuế tiêu thụ đặc biệt. Những quy định này tác động mạnh đến suy nghĩ của người dân buộc họ phải thực thi đúng các quy định pháp luật II. Yếu tố kinh tế Theo học thuyết Mác – Lênin về hình thái kinh tế xã hội thì cơ sở hạ tầng quyết định đến kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng bao gồm toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của 1 hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Do đó yếu tố vô cùng quan trọng quyết định đến việc thực thi pháp luật của người dân chính là cơ sở kinh tế. Điều kiện kinh tế thấp kém thì tính chất của hành vi ít phức tạp hơn ngược lại kinh tế càng phát triển thì tính chất của hành vi càng trở lên phức tạp. Có thể thấy sự vận động và phát triển của nền kinh tế tác động 1 cách toàn diện và sâu sắc lên hầu hết các quan hệ xã hội và các lĩnh vực của đời sống. + Có thời kì nền kinh tế của nước ta hầu như không phát triển với cơ chế quản lý bằng kế hoạch hoá tập trung, con người sống và chịu áp đặt của cơ chế và vì vậy trong tư tưởng người ta cũng thấy bóng dáng của sự bao cấp – bao cấp cả trong suy nghĩ…sự trì trệ đó là do cơ sở kinh tế thấp kém, ít phát triển thậm chí ở 1 mức độ nào đó còn có thể khẳng định nhà nước quyết định số hàng hoá cụ thể đối với từng người cụ thể. Công bằng mà nói trong giai đoạn này việc ban hành luật thuế tiêu thụ đặc biệt không thật sự cần thiết, do đó đến năm 1990 luật thuế tiêu thụ mới được đưa vào Việt Nam và áp dụng với những hàng hoá ảnh hưởng đến sức khoẻ con người là chủ yếu + Tuy nhiên sự hạn chế của cơ chế kế hoạch hoá tập trung không thể chống lại sự phát triển của kinh tế theo một xu hướng mới – cơ chế thị trường với cơ cấu nhiều thành phần. Cơ chế kinh tế mới đã thức dậy những khả năng tiềm ẩn trong xã hội, đời sống xã hội của người dân tăng lên. Kinh tế phát triển kéo theo sự chạy đua về nhu cầu nhất là tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Họ bắt đầu có những nhu cầu mới về đời sống cũng như tinh thần, đặc biệt trong đó có cả nhu cầu về những hàng hoá dịch vụ được quy định trong Luật thuế tiêu thụ đặc biệt…Khi nhu cầu về những hàng hóa này xuất hiện thì người dân càng muốn tìm hiểu về luật thuế tiêu thụ đặc biệt, buộc phải thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt III. Yếu tố xã hội Sự phát triển của nền kinh tế đương nhiên sẽ dẫn đến sự thay đổi của xã hội. Các điều kiện xã hội rất phức tạp bao gồm nhiều yếu tố như văn hoá, giáo dục, y tế…Ngay những cái được coi là bản sắc cũng có thể bị mai một, thậm chí còn biến chất trước sự thay đổi các điều kiện mới. Nhờ các điều kiện về kinh tế được nâng lên nên các điều kiện về xã hội cũng có nhiều chuyển biến. Sự chuyển biến này cũng xảy ra theo 2 xu hướng hoặc là tích cực hoặc là tiêu cực. Khi nền kinh tế càng kém phát triển thì sự giao lưu văn hoá, lượng thông tin, tri thức…cũng có nhiều hạn chế và do vậy àm khả năng hiểu biết của con người cũng bị giới hạn. Giới hạn này cũng có thể làm cho con người không được tiếp xúc với pháp luật và vì vậy mà dẫn đến không biết pháp luật mà vi phạm quy định pháp luật. Ngược lại khi có nhiều thông tin nó có thể mang đến ảnh hưởng rất mạnh mẽ và cũng xảy ra theo 2 xu hướng. Xu hướng thứ nhất đem lại hiểu biết cho con người, các kiến thức về pháp luật thường thức, nó tạo ra thói quen sống và làm việc theo pháp luật, thói quen đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực. Xu hướng thứ hai là nó có thể đem lại những hiểu biết có hại, nếu các thông tin được cung cấp là những thông tin không “sạch”, có hại chẳng hạn như : các thông tin về lẩn tránh pháp luật, mặt hạn chế của thuế tiêu thụ đặc biệt với kích động không thực thi thuế...dễ dẫn đến sự lệch chuẩn trong cách ứng xử, trong đó có vi phạm pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Do đó, vấn đề kiểm soát thông tin và xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật là vấn đề hết sức quan trọng đối với nhà nước. IV. Trình độ năng lực quản lý của bộ máy quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt Thuế là công cụ quan trọng để nhà nước tồn tại và phát riển, qua đó duy trì trật tự công bằng xã hội. Hiện nay nước ta đang phát triển kinh tế thị trương theo định hướng xẫ hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này đòi hỏi phải có một đội ngũ các nhà làm luật có trình độ nhận thức cao, nắm bắt được xu hướng phát triển của đất nước, nhạy bén trước những biến đổi của đời sống kinh tế xã hội trên thế giới. Như vậy có thể thấy trình độ năng lực của các nhà xây dựng pháp luật thuế có ảnh hưởng lớn đến nội dung của pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Bởi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ban hành phải đảm bảo tính khả thi trong quá trình thực hiện, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội. Nếu trình độ của các nhà làm luật cao thì tất nhiên pháp luật thuế sẽ đảm bảo được tính khả thi, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, thể hiện được nguyện vọng của nhân dân. Ngược lại, nếu trình độ nhận thức của các nhà làm luật còn hạn chế, không nắm bắt được xu thế phát triển chung thì pháp luật thuế nhập khẩu khó có thể được thực hiện tốt và nghiêm minh, hơn nữa cũng không đảm bảo được sự công bằng xã hội. Như vậy, có nghĩa là luật sẽ không có tính khả thi, tạo sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của Nhà nước đối với người dân, đồng thời tạo cho người dân ý thức coi thường pháp luật thuế. Pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng ban hành phải được tổ chức thực hiện nghiêm túc trên thực tiễn. Nếu pháp luật thuế quá phức tạp, vượt quá trình độ quản lý của bộ máy hành thu thì sẽ dẫn đến tình trạng thất thu hoặc lạm thu, hoặc pháp luật thuế đó không được thực hiện đầy đủ trong thực tế. Bởi vậy, khi ban hành pháp luật thuế về chính sách thuế, quản lý thuế phải tính đến yếu tố này, nhằm đảm bảo tính phù hợp với tính khả thi của nó trong thực tiễn. Trong những năm qua nhà nước đã chăm lo nhiều đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, phẩm chất đạo đức, tác phong cho đội ngũ cán bộ quản lý thuế, tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý thuế, đổi mới cơ cấu tổ chức ngành thuế cho phù hợp, đổi mới cải cách thủ tục hành chính… Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, diện đối tượng cần quản lý khá rộng, lại đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc nâng cao khả năng quản lý thuế phụ thuộc rất lớn vào công nghệ thông tin với những phần mềm quản lý hiện đại. Song hiện tại hệ thống thông tin vẫn chưa đáp ứng được một khâu toàn diện trong các khâu quản lý thuế, cũng như ở các địa phương, việc kết nối thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa được thực hiện hoàn chỉnh. Tuy vậy, dù trình độ năng lực của cán bộ thuế đã được nâng cao song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý trong điều kiện mới. Do một số chưa làm tròn trách nhiệm quản lý thuế, thậm chí có những trường hợp tiêu cực, tham nhũng; đồng thời công tác tuyên truyền pháp luật thuế còn hạn chế, các tầng lớp nhân dân trong xã hội còn chưa thật sự nắm được nội dung các sắc thuế hiện hành, cũng như quyền lợi và nghĩa vụ khi nộp thuế, điều này dẫn đến việc thực hiện còn nhiều khó khăn, lúng túng, tình trạng trốn thuế, tránh thuế diễn ra thường xuyên, phổ biến. Nói chung, nhà nước cần thực hiện các giải pháp nâng cao trình độ năng lực quản lý của cả bộ máy quản lý thuế để tiến đến việc ban hành các quy định mới trong pháp luật thuế như quản lý thuế thực hiện theo cơ chế tự khai, tự nộp; quản lý thuế trên cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ… Thực hiện quản lý thuế hiện đại theo chuẩn mực chung của quốc tế. Nếu Việt Nam không chú trọng đến công tác nâng cao năng lực trình độ, năng lực quản lý thuế của bộ máy hành thu thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong quản lý thuế nhập khẩu hiện nay, chẳng hạn đối với quản lý giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu hiện nay. V. Yếu tố tâm lý. Thực thi pháp luật không chỉ bao gồm hiệu lực theo thời gian, không gian và theo đối tượng mà còn bao hàm các phương thức tác động của quy phạm lên các quan hệ xã hội, lên nhận thức của chủ thể các mối quan hệ, kết quả của các sự tác động đó gắn liền với chúng là yếu tố tâm lý – xã hội và nhiều yếu tố khác tham gia vào quá trình chuyển hoá các quy định của pháp luật thành những hàh vi hợp pháp, thành ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý. 1. Tâm lý và lợi ích cá nhân Vì hành vi của con người được hình thành từ những động cơ mang tính chủ quan, trong quá trình thực thi pháp luật bên cạnh những lợi ích không thể không tính đến mức độ hiểu biết pháp luật, các nhu cầu, nguyện vọng mục đích của chủ thể. Nhấn mạnh yếu tố chủ quan Resetov cho rằng: “ Cần phải làm sao để mỗi công dân nhận thức được một cách rõ ràng cách thức và biện pháp thực thi các quyền của mình, biết vận dụng chúng và hiểu được mối quan hệ không tách rời của quyền và nghĩa vụ. Đây là một kênh cần thiết để củng cố sự thống nhất của các quyền lợi của nhà nước với lợi ích của cá nhân đồng thời cũng nhằm hoàn thiện quá trình thực thi pháp luật” Mối quan hệ giữa quá trình và thực thi pháp luật với tâm lý con người cũng được Giavadxkaia khẳng định: “ Thực thi pháp luật là bằng chứng cho sự tin tưởng và ủng hộ của xã hội công dân, cuả cộng đồng với cơ quan lập pháp, việc xã hội công nhân và ửng hộ pháp luật góp phần hạn chế những phức tạp trong cơ chế thực thi. Ở đây muốn nói tới ý thức tự nguyện, sự nhiệt tình của mỗi công dân và mỗi tổ chức và cộng đồng với việc thực hiện nghĩa vụ của mình”. Bên cạnh đó Giavadxkaia còn cho rằng, ý thức coi thường pháp luật dẫn đến hàng loạt các văn bản pháp luật mang tính chủ quan, đó là ý thức chống đối ( chủ động hoặc thụ động) của những chủ thể khác nhau, là sự không thừa nhận và coi thường các quy định pháp luật. Tất nhiên là theo đó cả các cơ chế mục đích, các biện pháp…được quy định trong luật cũng sẽ được họ ủng hộ Thông thường mọi người quan tâm đến một văn bản pháp luật sẽ ảnh hưởng như thế nào đến quyền lợi của cá nhân và quyền lợi của nhóm đối tượng. Trong phần lớn các trường hợp, chủ thể không tiếp nhận một đạo luật và không tự giác thực thi pháp luật đó (ở đây không bao gồm trường hợp chủ thể không biết đến sự tồn tại của văn bản hoặc cố ý vi phạm một cách công khai) mà theo họ đạo luật này không đề cập đến lợi ích cá nhân thiết thực của mình. Vì vậy, những mục đích, lợi ích được thể hiện trong đạo luật và được luật bảo vệ cho có thể hiện tính hữu ích đối với xã hội. 2.Nhận thức cá nhân và sự trợ giúp Nhận thức pháp luật được hình thành bởi múc độ nắm bắt và khả năng phân tích thông tin pháp luật - điều mà không phải ai cũng được trang bị đầy đủ. Đó chính là kiến thức pháp luật, sự am hiểu các thuật ngữ, các phương pháp giải thích, phương pháp logíc chuyên ngành…Thực thi pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào trình độ văn hoá pháp lý của mỗi công dân, nghĩa là phụ thuộc vào mức độ được thông tin trong lĩnh vực pháp luật. Lẽ dĩ nhiên những hiểu biết của cá nhân và các quyền và nghĩa vụ của mình đóng 1 vai trò quan trọng trong quá trình thực thi pháp luật, Tuy nhiên không phải lúc nào chúng ta cũng hiểu một cách chính xác từng câu, từng chữ được thể hiện trong văn bản. Bên cạnh đó, những lập luận của những ngươi không có khả năng chuyên môn giải thích pháp luật cũng có thể dẫn đến những điều không hợp pháp. Chính vì vậy, trong quá trình thực thi pháp luật rất cần có sự tư vấn trợ giúp của các chuyên gia pháp lý cho người dân, những người luôn gặp phải khó khăn trong nhận thức cũng như thực thi các quỳên, lợi ích hợp pháp của mình “ Trong thực tế, có rất nhiều các quy phạm pháp luật được đón nhận một cách tự nhiên thông qua giáo dục, đặc biệt là những quy phạm trùng hợp với các quy phạm đạo đức. Có những quy phạm thì người tự tìm hiểu bằng chính hiểu biết của mình. Nhưng có những quy định của pháp luật, để hiểu được cần có sự giúp đỡ của các chuyên gia pháp lý” Tuy nhiên, để phát triển tình cảm pháp chế, ngoài việc có môi trường thuận lợi, công dân cần phải được tiếp cận với pháp luật của nhà nước. Thật khó trông đợi sao sự tuân thủ pháp luật chỉ theo thói quen và sự tôn trọng, khi một người không hề được biết đến những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ cơ bản của mình. Vì vậy, việc phổ biến những kiến thức pháp luật phổ thông là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với việc củng cố tình cảm pháp chế của công dân 3. Mục tiêu đồng thuận với mục đích cá nhân Một trong những điều kiện bảo đảm cho thực thi pháp luật có kết quả là sự đồng thuận giữa các mục tiêu đặt ra của văn bản và định hướng trong quá trình thực thi. Khi xây dựng các quy phạm pháp luật, nhà làm luật luôn mong muốn sao cho các quy định đó được thực thi một cách tự nguyện. Vì vậy, điều quan trọng là mục tiêu của luật phải hoà nhập được với  mục đích của các chủ thể với sự khác biệt thấp nhất. Nếu không, các kết quả thu được của quá trình thực thi pháp luật sẽ xa rời với những dự kiến ban đầu của nhà làm luật. Chẳng hạn: hiện nay nhằm khuyến khích sử dụng ô tô phục vụ sản xuất kinh doanh, vận chuyển hành khách công cộng, hạn chế sử d
Luận văn liên quan