Phân tích báo cáo kết quả hoạt động tín dụng cho vay xoá đói giảm nghèo

Là một sinh viên năm thứ ba khoa Tài Chính Ngân Hàng với những mong muốn được thực hiện điều có ích cho quê hương bằng những kiến thức có được trong suốt ba năm ngồi trên ghế giảng đường, với một mong muốn đã ấp ủ từ lâu cùng những kiến thức nhất định và đặc biệt là có được môi trường để thực hiện mong muốn là cuộc thi “sinh viên nghiên cứu khoa học” toàn trường Đại học kinh tế phát động, em đã thực hiện được mong muốn là viết một bài nghiên cứu về tín dụng cho vay xoá đói giảm nghèo của huyện do Ngân hàng chính sách xã hội thực hiện. Để hoàn thành được một bài nghiên cứu quả thật khó khăn đối với một sinh viên về cả quỹ thời gian và kiến thức, em đã may mắn nhận được sự quan tâm của các thầy cô trong khoa và đặc biệt là giảng viên trực tiếp hướng dẫn em viết bài nghiên cứu này cô Nguyễn Thị Hải Hà. Nhờ có sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của cô em đã tránh được những lỗi sai và hoàn thiện bài viết của mình hơn, hơn nữa sự quan tâm của cô đã giúp em có động lực để hoàn thành một cách tốt nhất cho bài viết. Bên cạnh đó là sự giúp đỡ nhiệt tình của bên đối tượng nghiên cứu Ngân hàng chính sách xã hội huyện Quan Hoá, Uỷ ban huyện cùng đối tượng được cho vay là những hộ nghèo trong địa bàn đã nhiệt tình cộng tác để em có thể hoàn thành bài viết đúng thời hạn.

docx75 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1919 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích báo cáo kết quả hoạt động tín dụng cho vay xoá đói giảm nghèo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Là một sinh viên năm thứ ba khoa Tài Chính Ngân Hàng với những mong muốn được thực hiện điều có ích cho quê hương bằng những kiến thức có được trong suốt ba năm ngồi trên ghế giảng đường, với một mong muốn đã ấp ủ từ lâu cùng những kiến thức nhất định và đặc biệt là có được môi trường để thực hiện mong muốn là cuộc thi “sinh viên nghiên cứu khoa học” toàn trường Đại học kinh tế phát động, em đã thực hiện được mong muốn là viết một bài nghiên cứu về tín dụng cho vay xoá đói giảm nghèo của huyện do Ngân hàng chính sách xã hội thực hiện. Để hoàn thành được một bài nghiên cứu quả thật khó khăn đối với một sinh viên về cả quỹ thời gian và kiến thức, em đã may mắn nhận được sự quan tâm của các thầy cô trong khoa và đặc biệt là giảng viên trực tiếp hướng dẫn em viết bài nghiên cứu này cô Nguyễn Thị Hải Hà. Nhờ có sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của cô em đã tránh được những lỗi sai và hoàn thiện bài viết của mình hơn, hơn nữa sự quan tâm của cô đã giúp em có động lực để hoàn thành một cách tốt nhất cho bài viết. Bên cạnh đó là sự giúp đỡ nhiệt tình của bên đối tượng nghiên cứu Ngân hàng chính sách xã hội huyện Quan Hoá, Uỷ ban huyện cùng đối tượng được cho vay là những hộ nghèo trong địa bàn đã nhiệt tình cộng tác để em có thể hoàn thành bài viết đúng thời hạn. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô trong khoa Tài chính ngân hàng, Ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh huyện Quan Hoá, Uỷ ban huyện Quan Hoá,các hộ gia đình –đối tượng hộ nghèo trong địa bàn đã giúp đỡ em trong thời gian qua. DANH SÁCH VIẾT TẮT STT Viết tắt Tên đầy đủ 1 NHCSXH Ngân hàng chính sách xã hội 2 LĐTB&XH Lao động và thương binh xã hội 3 VND Việt Nam đồng 4 NHTM Ngân hàng thương mại 5 TK&VV Tiết kiệm và vay vốn 6 XĐGN Xoá đói giảm nghèo 7 UBND Uỷ ban nhân dân 8 THPT Trung học phổ thông 9 THCS Trung học cơ sở 10 MDG Phát triển thiên niên kỷ 11 HĐQT Hội đồng quả trị 12 PDG Phòng giao dịch MỞ  ĐẦU Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt từ 7- 8%; đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, chính trị được giữ vững và ổn định. Lĩnh vực xóa đói giảm nghèo cũng đạt được nhiều thành tích nổi bật và được Liên hợp quốc đánh giá cao. Tuy vậy, mặt trái của sự phát triển cũng ngày càng bức xúc, như khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng; sự tụt hậu ngày càng lớn giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng; tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng; tình trạng ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên đất nước.v.v.. Hàng triệu hộ nghèo hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa không được hưởng những thành quả của sự phát triển. Họ đang bơ vơ, lạc lõng trước sự hội nhập toàn cầu và ánh sáng của thế giới văn minh. Những yếu kém trên là nguyên nhân mất ổn định về xã hội- chính trị, là nỗi đau của một xã hội đang phấn đấu vì lý tưởng dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta cũng đã quan tâm đến nhiệm vụ Xóa đói giảm nghèo; Đại hội VIII của Đảng đã xác định rõ Xóa đói giảm nghèo là một trong những chương trình phát triển kinh tế, xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài và nhấn mạnh “phải thực hiện tốt chương trình Xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng và phát triển quỹ Xóa đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả”. Chính phủ đã phê duyệt và triển khai chương trình, mục tiêu quốc gia Xóa đói giảm nghèo, giai đoạn 1998- 2000 và giai đoạn 2001-2010, như hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo; hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn; định canh, định cư, di dân, kinh tế mới; hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông- lâm- ngư; hỗ trợ tín dụng cho người nghèo; hỗ trợ người nghèo về y tế; hỗ trợ người nghèo về giáo dục; hỗ trợ sản xuất, phát triển ngành nghề; đào tạo cán bộ làm công tác Xóa đói giảm nghèo, cán bộ các xã nghèo, chương trình phát triển kinh tế, xã hội các xã đặc biệt khó khăn (QĐ số 135/1998/QĐ-TTg), chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm.v.v… Huyện Quan Hoá là một huyện nhỏ thuộc vùng sâu vùng xa của tỉnh Thanh Hoá huyện với 17 xã một thị trấn, dân số đông, lao động nông nghiệp nhàn rỗi, tỷ lệ hộ nghèo tương đối cao,mức sống ở đây cũng khá chênh lệch giữa các hộ nông nghiệp và công nhân viên chức, hay những hộ kinh doanh. Hiện nay, đời sống bộ phận người dân ở nông thôn những năm gần đây đã có nhiều cải thiện, sinh hoạt của người lao động đã bớt nhiều khó khăn do mỗi hộ nông dân đã được tham gia làm kinh tế từ nhiều nguồn vốn tài trợ khác nhau, trong đó có nguồn vốn của Ngân chính sách Việt Nam (NHCS). Việc tiếp nhận được nguồn vốn hỗ trợ từ hệ thống NHCS có ý nghĩa to lớn đối với những hộ nghèo đang cần vốn để sản xuất kinh doanh, thay vì phải chấp nhận những nguồn vốn vay với lãi suất cao từ những ngân hàng thương mại trong cả nước hay việc vay ngoài của những hộ kinh doanh có thu nhập cao, khó khăn trong những điều kiện về việc vay vốn như: cần có tài sản thế chấp.... Từ khi NHCS Việt Nam ra đời, họ đã có thể được tiếp cận với một nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi thấp hơn, những điều kiện cho vay dễ dàng hơn, góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho người nghèo.   Ra đời ngày 10/5/2003 và đi vào hoạt động được 10 năm, Phòng giao dịch NHCS huyện QUAN HOÁ cũng đã đóng góp một phần to lớn vào việc thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo – một trong 11 chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng.Với mong muốn tìm hiểu được những thành tích cũng những thiếu sót trong công tác cho vay xoá đói giảm nghèo của chi nhánh NHCS VN tôi xin chọn đề tài “Phân tích và báo cáo kết quả hoạt động cho vay của chi nhánh Quan Hoá ngân hàng chính sách Việt Nam trong giai đoạn 2008-2012” làm đề tài nghiên cứu của mình. Sự cần thiết của đề tài Nghèo đói là một vấn đề mà không chỉ những nước kém phát triển đáng ngại, đáng lo mà đó là một vấn đề toàn cầu, vấn đề cả Xã hội quan tâm. Vấn đề đó luôn đặt ra câu hỏi làm thế nào để giải quyết được nó, và nước ta là một Quốc gia đã và đang cố gắng giảm triệt để vấn nạn này. Đi đầu trong những giải pháp trước hết phải kể đến hoạt động cho vay xoá đói giảm nghèo ‘cho cần câu cơm‘ của nước ta do Ngân hàng chính sách đứng gia thực hiện. Để kiểm nghiệm được tính phù hợp, tính hiệu quả của phương pháp này cần điều tra và xác nhận lại. Đề tài là một ví dụ cho biện pháp đánh giá tính hiệu quả của chương trình xoá đói giảm nghèo, là cái nhìn trực quan về cách thức, hoạt động của Ngân hàng về cho vay xoá đói giảm nghèo. Tình hình nghiên cứu : Tình hình nghiên cứu trong nước : Đã có nhiều bài nghiên cứu về thực trạng tín dụng của ngân hàng Chính sách và Xã hội Việt Nam cũng như về tín dụng cho vay xoá đói giảm nghèo. Xong việc đi sâu nghiên cứu tại một đối tượng cụ thể tiêu biểu ,đặc trưng cho đối tượng nghèo còn khá ít vì vậy em đã chọn đối tượng là một trong những huyện nghèo nhất của cả nước để đi sâu nghiên cứu về hoạt động tín dụng cho vay xoá đói giảm nghèo. Tình hình nghiên cứu nước ngoài : Vấn đề nghèo là vấn đề mà nhiều quốc gia trên thế giới gặp phải và lo ngại,họ luôn tìm kiếm cho quốc gia của mình một phương pháp tốt nhất để Xoá đói giảm nghèo triệt để. Việc khuyến khích nghiên cứu ,tìm hiểu nguyên nhân và cách khắc phục hiện trạng nghèo đói đang được đẩy mạnh và hỗ trợ ở các nước đang phát triển . Đã có rất nhiều nghiên cứu và những biện pháp khắc phục được nêu ra trong suốt ‘’thập kỷ chống đói nghèo’’. Đề tài đã tiếp thu được những kiến thức quý giá từ những nghiên cứu trước bằng việc áp dụng thực tế lên đối tượng nghiên cứu Ngân hàng chính sách xã hội huyện Quan Hoá. Mục tiêu nghiên cứu Phân tích và báo cáo kết quả hoạt động cho vay xoá đói giảm nghèo của chi nhánh Quan Hoá ngân hàng chính sách Việt Nam trong giai đoạn 2008-2012. Từ đó đưa ra những nhận xét, nhận định và những kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động cho vay xoá đói giảm nghèo ở huyện Quan Hoá. Nhằm hiểu biết nhiều hơn những kiến thức về cách viết một bài nghiên cứu, về hoạt động tín dụng của ngân hàng... Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : Đối tượng nghiên cứu : Hoạt động cho vay xoá đói giảm nghèo của ngân hàng chính sách huyện Quan Hoá Phạm vi nghiên cứu: Địa bàn huyện Quan Hoá Thời gian nghiên cứu : Từ 2008 – 2012 Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp tổng hợp tài liệu kết hợp với thực tiễn; Thống kê, điều tra, phỏng vấn Đóng góp dự kiến của đề tài Hệ thống hoá về mặt lý thuyết các nội dung về cho vay xoá đói giảm nghèo ở các nước đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Cung cấp một bức tranh thực tế về hoạt động cho vay xoá đói giảm nghèo ở huyện Quan Hoá, là tài liệu tham khảo tốt cho những đề tài có liên quan. Đề tài thể hiện sự vận dụng lý thuyết để giải quyết những vấn đề thực tiễn – là tham khảo tốt về phương pháp luận nghiên cứu khoa học cho sinh viên Bố cục của đề tài  Ngoài phần mở đầu và kết luận, Bài viết gồm có 3 phần chính : Phần 1 : Cơ sở lý luận về tín dụng xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam Phần 2 : Hoạt động tín dụng cho vay hộ nghèo của ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh huyện Quan Hoá giai đoạn (2008-2012) Phần 3 : Đánh giá kết quả hoạt động cho vay của ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh huyện Quan Hoá PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM 1.1. Sự cần thiết phải hỗ trợ người nghèo 1.1.1. Tổng quan về đói nghèo 1.1.1.1. Khái niệm đói nghèo Theo định nghĩa Quốc tế: Đói nghèo theo quan niệm trước kia: trước kia người ta thường đánh đồng nghèo đói và thu nhập thấp. Coi thu nhập là chỉ tiêu đánh giá sự nghèo đói của con người. Quan niệm này giúp xác định dễ dàng số lượng người nghèo dựa vào chuẩn nghèo, ngưỡng nghèo. Nhưng thực tế chứng minh việc xác định đói nghèo theo thu nhập chỉ đo một phần trong cuộc sống. Thu nhập không phản ánh hết các khía cạnh của đói nghèo, quan niệm nghèo đói này vẫn còn nhiều hạn chế. Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các trị ranh giới nghèo tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 đô la cho khu vực Mỹ La tinh và Carribean đến 4 đô la cho những nước  Đông Âu, cho đến 14,40 đô la cho những nước công nghiệp. (Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc 1997). Theo quan niệm hiện nay: đói nghèo được hiểu và xem xét trên nhiều khía cạnh, hiểu sâu rộng hơn. Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực Châu Á –Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức vào tháng 9-1993 tại Băng Cốc-Thái Lan đưa ra khái niệm về định nghĩa nghèo đói. Nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối: Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được công nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán . Nghèo đói tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. Ngoài ra trên khía cạnh kinh tế người ta còn định nghĩa nghèo đói là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ yếu là trong lĩnh vực kinh tế. Theo khía cạnh phi kinh tế nghèo đói là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn lịch sử ,trong phạm vi quốc gia ,một khu vực,một vùng. Theo Việt Nam Việt Nam tách bạch đói nghèo là hai khái niệm riêng biệt Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Đói: là tình trạng bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống . 1.1.1.2. Thực trạng nghèo đói Nghèo trên toàn thế giới: Theo số liệu của Ngân hàng Thế Giới thì trong năm 2001 trên toàn thế giới có 1,1 tỉ người (tương ứng với 21% dân số thế giới) có ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức mua địa phương và vì thế được xem là rất nghèo. (Năm 1981 là 1,5 tỉ người, vào thời gian đó là 40% dân số thế giới, năm 1987 là 1,227 tỉ người tương ứng 30% và năm 1993 là 1,314 tỉ người tương đương với 29%). Phần lớn những người này sống tại châu Á, thế nhưng thành phần những người nghèo trong dân cư tại châu Phi lại còn cao hơn nữa. Các thành viên của Liên Hiệp Quốc trong cuộc họp thượng đỉnh thiên niên kỷ năm 2000 đã nhất trí với mục tiêu cho đến năm 2015 giảm một nửa số những người có ít hơn 1 đô la Mỹ. (Điểm 1 của những mục đích phát triển thiên niên kỷ). Trong khi nhờ vào tăng trưởng kinh tế tại nhiều vùng của châu Á, tỷ lệ người nghèo giảm xuống rõ rệt (từ 58% xuống còn 16% tại Đông Á) thì con số những người nghèo nhất lại tăng lên ở châu Phi (gần gấp đôi từ 1981 đến 2001 phía Nam sa mạc Sahara). Tại Đông Âu và Trung Á con số những người nghèo nhất đã tăng lên đến 6% dân số. Nếu như đặt ranh giới nghèo là 2 đô la Mỹ mỗi ngày thì có tổng cộng là 2,7 tỉ người nghèo, gần một nửa dân số thế giới. Nghèo Việt Nam: Theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam, vào năm 2004 chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp hạng 112 trên 177 nước, chỉ số phát triển giới (Gender Development Index-GDI) xếp 87 trên 144 nước và chỉ số nghèo tổng hợp (Human Poverty Index-HPI) xếp hạng 41 trên 95 nước. Cũng theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc. Vào năm 2002 tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12.9%, theo chuẩn thế giới là 29% và tỷ lệ nghèo lương thực (%số hộ nghèo ước lượng năm 2002) là 10.87%. Vào đầu thập niên 1990, chính phủ Việt Nam đã phát động chương trình Xóa đói giảm nghèo cùng với lời kêu gọi của Ngân hàng thế giới. UNDP cho rằng mặc dù Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững và kết quả rất ấn tượng giảm tỷ lệ nghèo, song vẫn còn tồn tại tình trạng nghèo cùng cực ở một số vùng. Để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), Việt Nam cần phải giải quyết tình trạng nghèo cùng cực. Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 11% dân số. Tuy nhiên, trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam, rất nhiều đại biểu cho rằng tỷ lệ hộ nghèo giảm không phản ánh thực chất vì số người nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng do tác động của lạm phát (khoảng 40% kể từ khi ban hành chuẩn nghèo đến nay). Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập bấp bênh: Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công to lớn trong việc giảm tỷ lệ hộ nghèo, tuy nhiên cũng cần thấy rằng, những thành tựu này vẫn còn rất mong manh. Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do vậy chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng làm họ rơi xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ hộ nghèo. Phần lớn thu nhập của người nghèo từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của người nghèo rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến trước những biến đổi của mổi gia đình và cộng đồng. Nhiều gia đình tuy mức thu nhập trên ngưỡng nghèo nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng nghèo đói vì vậy khi có giao động vềthu nhập cũng làm họrơi xuống ngưỡng nghèo.Tính mùa vụtrong sản xuất nông nghiệp cũng tạo nên khó khăn cho người nghèo. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện khó khăn: Đa số người nghèo sống trong vùng có điều kiện tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như vùng núi, vùng sâu, vùng xa......,do sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hán) khiến cho các điều kiện sống, đặc biệt sự kém phát triển về cơ sở hạ tầng của các vùng nghèo đã làm cho các vùng này càng tách biệt với các vùng khác. Bên cạnh đó điều  kiện tự nhiên không thuận lợi, số người cứu trợ đột xuất hằng năm khá cao. Hàng năm số hộ tái nghèo trong tổng số hộvừa thoát nghèo vẫn còn lớn. Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn: Đói nghèo là hiện tượng phổ biến ở nông thôn với 90% số người nghèo sinh sống ở nông thôn. Trên 80% số người nghèo là nông dân, trình độ tay nghề thấp, ít khă năng tiếp cận với nguồn lực trong sản xuất. Nghèo đói trong khu vực thành thị: Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức sống trung bình cao hơn mức chung cả nước, nhưng mức độ cải thiện đời sông không đều. Đa số người nghèo thành thị làm việc trong khu vực kinh tế  phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập bấp bênh. Tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao: Các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống có tỷ lệ hộ nghèo khá cao. Đây là những vùng có điều kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn hạn chế, cơ sở hạ tầng kém phát triển. Tỷ lệ hộ nghèo đặc biệt khá cao ở những nhóm dân tộc ít người: Trong thời gian qua Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng đời sống của cộng đồng dân tộc ít người vẫn còn nhiều khó khăn và bất cập. Mặc dù dân tộc tộc ít người chỉ chiếm 14% tổng dân cư xong lại chiếm khoảng 20% trong tổng số người nghèo. 1.1.1.3. Đặc tính của người nghèo Người nghèo thường có những đặc điểm tâm lý và nếp sống được thể hiện: Người nghèo thường rụt rè, tự ti, ít tiếp xúc, phạm vi giao tiếp hẹp. Bị hạn chế về khả năng nhận thức và kỹ năng sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, người nghèo thường tổ chức sản xuất theo thói quen, chưa biết mở mang ngành nghề và chưa có điều kiện tiếp xúc với thị trường. Do đó sản xuất mang nặng tính tự cung, tự cấp. Phong tục, tập quán sinh hoạt và những truyền thống văn hóa của người nghèo thường lạc hậu hủ tục. Người nghèo thường sử dụng vốn vào sản xuất nông nghiệp là chủ yếu hoặc là những ngành nghề thủ công buôn bán nhỏ. Do vậy mà nhu cầu vốn thường mang tính thời vụ. Người nghèo thường có sự chăm sóc về sức khoẻ thấp do nhu cầu ý thức về sức khoẻ kém, bên cạnh đó là do khả năng chi trả về tiền cho những lần khám chữa bệnh là không có. Hầu hết người nghèo không có tiền để đi học và họ lao động cần nhiều nhân lực vì vậy nên các cha mẹ trong một gia đình thường giữ con cái trong gia đình ở nhà lao động chứ không tạo điều kiện khuyến khích các em đi học. Người nghèo rất dễ bị tổn thương về tinh thần và vật chất; Có nghĩa là họ khó có khả năng vượt qua những cú sốc như một sự mất mát về tài sản hay khi có ốm đau. Người nghèo thường xuất thân từ những gia đình đông con cái hay gia đình có nhiều người ăn theo. Người nghèo thường là những người có nhu cầu tiền rất cao họ mong muốn có một cuộc sống thay đổi nhanh chóng, với nhận thức thường thấp nên dễ bị lôi kéo làm những việc phi pháp, dễ vi phạm pháp luật. 1.1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến đói nghèo Nguyên nhân chung: Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến đói nghèo trên thế giới song nguyên nhân chủ yếu vẫn nằm ở các điểm sau: Chính trị Xã hội Nguồn tài nguyên thiên nhiên,con người Điều kiện kinh tế Nguyên nhân lịch sử Nguyên nhân ở Việt Nam: Nhóm nguyên nhân do điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị lịch sử: Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình nghèo, ở những vùng khí hậu khắc nghiệt :thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, đất đai cằn cỗi, diện tích đất canh tác ít, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, thiếu cơ sở hạ tầng hoặc không có cơ sở hạ tầng là những vùng có nhiều hộ nghèo đói nhất. Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong chiến tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, học tập cải tạo trong một thời gian dài. Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính sách tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ
Luận văn liên quan