Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá, nó là sản phẩm của tự nhiên, đất đai bị hạn chế về số lượng, có tính không đồng nhất. Đất đai có tính cố định về vị trí, tính vĩnh cửu và không thay thế. Với những đặc điểm tự nhiên của đất đai như đã nói ở trên chúng ta thấy đất đai là điều kiện vật chất cần thiết để tồn tại và tái sản xuất của các thế hệ nối tiếp nhau của loài người. Do đó việc sử dụng đất cần phải thiết thực, khoa học, hợp lý, tiết kiệm và mang lại hiệu quả.
13 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2636 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng đất đai hợp lý và ngăn chặn tình trạng suy thoái đất tỉnh Sơn La, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo chuyên đề
sử dụng đất đai hợp lý và ngăn chặn
tình trạng suy thoái đất
(Thuộc Nhóm chuyên đề Chương trình Nghị sự 21 tỉnh Sơn La)
Sơn La, tháng 8 năm 2005
Chuyên đề sử dụng đất đai hợp lý
và ngăn chặn tình trạng suy thoái đất
I. Nội dung báo cáo chuyên đề
Đặt vấn đề:
Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá, nó là sản phẩm của tự nhiên, đất đai bị hạn chế về số lượng, có tính không đồng nhất. Đất đai có tính cố định về vị trí, tính vĩnh cửu và không thay thế. Với những đặc điểm tự nhiên của đất đai như đã nói ở trên chúng ta thấy đất đai là điều kiện vật chất cần thiết để tồn tại và tái sản xuất của các thế hệ nối tiếp nhau của loài người. Do đó việc sử dụng đất cần phải thiết thực, khoa học, hợp lý, tiết kiệm và mang lại hiệu quả.
Phần 1- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất
1- Đặc điểm tài nguyên đất đai của tỉnh:
Tỉnh Sơn La có tổng diện tích 1.405..500 ha. Kết quả điều tra xây dựng bản đồ thổ nhưỡng tỷ lệ 1/100.000 tỉnh Sơn La cho thấy:
Sơn La là tỉnh vùng núi cao có đặc điểm địa hình, địa chất phức tạp nên đã hình thành nhiều loại đất bao gồm 8 nhóm đất với 27 loại đất khác nhau:
- Nhóm đất phù sa: diện tích 5.080 ha, chiếm 0,36% tổng diện tích đất tự nhiên.
- Nhóm đất lầy và than bùn: diện tích 223 ha, chiếm 0,02% tổng DTĐTN.
- Nhóm đất đen: diện tích 6.393 ha, chiếm 0,45% tổng DTĐTN.
- Nhóm đất đỏ vàng: 879.834 ha, chiếm 62,60% tổng DTĐTN.
- Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi: diện tích 380.466 ha, chiếm 27,07% DTĐTN.
- Nhóm đất mùn trên núi cao: diện tích 29.878 ha, chiếm 2,13% DTĐTN.
- Nhóm đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ: diện tích 11.031 ha, chiếm 0,78% DTĐTN.
- Nhóm đất cacbonnat: diện tích 128 ha, chiếm 0,01% DTĐTN.
(diện tích được điều tra phân loại thổ nhưỡng là 1.313.033 ha trừ diện tích núi đá, sông, suối)
Các nhóm đất chủ yếu là đất đỏ vàng (F) và mùn vàng đỏ trên núi (H). Các nhóm đất này chiếm 89,70% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Trong cơ cấu các loại đất, Sơn La có nhiều loại đất tốt như: đất nâu đỏ và nâu vàng trên đá Mácma bazơ và trung tính; đất đỏ nâu vàng trên đá vôi; đất đỏ vàng trên đá biến chất; đất nâu tím trên đá sét màu tím và dăm cuội kết...
Đất chủ yếu có độ dốc cao: 85% đất có độ dốc trên 250, gần 7% có độ dốc dưới 150. Tuy nhiên trên địa bàn tỉnh có 2 cao nguyên tương đối bằng phẳng và rộng lớn là cao nguyên Mộc Châu và Sơn La - Nà Sản, các cao nguyên này là nơi phân bố các loại đất có độ phì cao, tầng đất dày khá (từ 90 - 120 cm) như đất đỏ vàng và đất nâu vàng trên đá vôi... mang lại ưu thế để phát triển một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá có quy mô tập trung.
Hầu hết các loại đất ở Sơn La có độ dày tầng đất từ trung bình đến khá: (đất có tầng dày trên 100 cm chiếm 33,5%; tầng dày 50 - 70 cm chiếm 36,1% và dưới 50 cm chiếm 30,4%), thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng, tỷ lệ mùn và các chất dinh dưỡng từ trung bình đến khá, độ chua không cao lắm, nghèo bazơ trao đổi và các chất dễ tiêu. Tuy nhiên do đa phần đất đai của tỉnh nằm trên độ dốc lớn, lớp phủ thực vật nghèo kiệt nên cần chú trọng các biện pháp bảo vệ đất, hạn chế rửa trôi, xói mòn làm nghèo dinh dưỡng đất.
2- Kết quả phân hạng thích nghi và đề xuất sử dụng đất Sơn La cho thấy:
Đất thích hợp để canh tác các loại cây trồng nông nghiệp khoảng 138.500 ha (chiếm gần 10% diện tích tự nhiên), trong đó đất rất thích hợp và thích hợp trung bình (S1, S2) là 114.200 ha. Ngoài ra còn có khoảng 172.500 ha đất thích hợp để khai thác sử dụng theo phương thức nông lâm kết hợp. Đất thích hợp cho lâm nghiệp là 976.600 ha (trong đó có trên 500 nghìn ha đang có rừng).
Trong cơ cấu đất thích hợp để phát triển các cây trồng nông nghiệp, đất thích hợp với các loại cây lâu năm là 65.800 ha (chiếm 47,5% tổng diện tích thích hợp), trong đó đất rất thích hợp và thích hợp trung bình (S1, S2) chiếm 92,1% tổng diện tích (60.600 ha).
Đánh giá chung đặc điểm thổ nhưỡng của tỉnh có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Độ phì nhiêu của đất Sơn La tuy đã bị suy thoái nhiều do thảm thực vật bị tàn phá nặng nề và những tập quán canh tác lạc hậu còn phổ biến, nhưng nhìn chung còn ở mức trung bình. Để bảo vệ và cải thiện độ màu mỡ của tài nguyên đất, cần thu hẹp và tiến tới chấm dứt phương pháp quảng canh lạc hậu, du canh du cư, đầu tư phân bón hợp lý, đặc biệt là phân hữu cơ để bồi dưỡng, nâng cao độ phì của đất và đặc biệt chú trọng phục hồi độ che phủ của thảm thực vật.
- Đất sản xuất nông lâm nghiệp của tỉnh phân bố rộng, hình thành nhiều vùng thổ nhưỡng với thành phần cơ giới, thành phần lý, hoá tính khác nhau, có độ cao canh tác thay đổi từ 400 - 1500 m so với mặt nước biển, gồm nhiều tiểu vùng khí hậu phù hợp với nhiều loại cây trồng, vật nuôi là điều kiện để phát triển đa dạng hoá cây trồng: vùng đất ruộng, đất bãi thích hợp với cây lương thực - thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày, vùng đất đồi núi thích hợp với nhiều loại cây dài ngày như chè, cà phê, cây ăn quả... hình thành những vùng kinh tế chuyên canh sản xuất nông sản hàng hoá tập trung (gồm có các sản phẩm ôn đới, sản phẩm nhiệt đới và sản phẩm á nhiệt đới).
3. Thực trạng lĩnh vực chuyên đề nghiên cứu:
Như trên đã trình bày trong tổng diện tích 1.405.500ha đất tự nhiên của tỉnh có tới 85% diện tích đất có độ dốc trên 250 (khoảng gần 1,2 triệu ha đất dốc trên 250) như vậy là để phát triển bền vững tỉnh Sơn La cần phải có giải pháp sử dụng hợp lý, hiệu quả diện tích loại đất này. Với dân số toàn tỉnh hiện nay là 975.455 người (số liệu năm 2004) và tốc độ tăng dân số như hiện nay thì chỉ 1 - 2 năm nữa là dân số Sơn La vượt ngưỡng 1.000.000 người. Để đáp ứng an ninh lương thực cho số dân nói trên thì diện tích đất sản xuất nông nghiệp của tỉnh phải ổn định ở mức xấp xỉ 200.000 ha. Trong tổng số 138.500 ha đất thích hợp cho sản xuất nông nghiệp hiện nay, với tốc độ đô thị hoá, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương, diện tích này thường xuyên phải chia sẻ cho các mục đích nói trên. Như vậy là phải sử dụng ít nhất là trên 60.000 ha đất dốc cho sản xuất nông nghiệp, đây là một vấn đề bức xúc trong quá trình sử dụng đất trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Hiện trạng sử dụng đất của tỉnh Sơn La năm 2004 như sau:
Đơn vị tính ha
STT
Loại đất
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Tổng diện tích tự nhiên
1.405.500
100,00
I
Nhóm đất nông nghiệp
672.485
47,85
1
Đất sản xuất nông nghiệp
191.828
28,53
1.1
Đất trồng cây hàng năm
158.855
82,81
1.1.1
Đất ruộng lúa, lúa màu
15.430
9,71
1.1.2
Đất nương rẫy
123.084
77,48
1.1.3
Đất trồng cây hàng năm khác
20.341
12,81
1.2
Đất vườn tạp
6.933
3,61
1.3
Đất trồng cây lâu năm
22.584
11,77
1.4
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
1.832
0,96
1.5
Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
1.624
0,85
2
Đất lâm nghiệp
480.657
71,47
2.1
Đất có rừng tự nhiên
439.592
91.46
2.1.1
Đất rừng sản xuất
50.297
11,44
2.1.2
Đất rừng phòng hộ
322.149
73,28
2.1.3
Đất rừng đặc dụng
67.146
15,28
2.2
Đất có rừng trồng
41.047
8,54
2.2.1
Đất rừng sản xuất
8.364
20,38
2.2.2
Đất rừng phòng hộ
32.646
79,53
2.2.3
Đất rừng đặc dụng
37
0,09
2.3
Đất ươm cây giống
18
0
II
Nhóm đất phi nông nghiệp
30.276
2,15
1
Đất ở
6.033
19,93
1.1
Đất ở nông thôn
438
7,30
1.2
Đất ở đô thị
5.595
92,70
2
Đất chuyên dùng
24.243
80,07
2.1
Đất xây dựng
1.735
7,16
2.2
Đất giao thông
7.986
32,94
2.3
Đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng
9.059
37,37
2.4
Đất di tích lịch sử văn hoá
22
0,09
2.5
Đất an ninh quốc phòng
1.198
4,94
2.6
Đất khai thác khoáng sản
201
0,83
2.7
Đất làm nguyên vật liệu xây dựng
192
0,79
2.8
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
3.696
15,25
2.9
Đất chuyên dùng khác
154
0,64
III
Nhóm đất chưa sử dụng
702.739
50,00
1
Đất bằng chưa sử dụng
212
0,03
2
Đất đồi núi chưa sử dụng
598.434
85,16
3
Đất có mặt nước chưa sử dụng
45
0,01
4
Sông suối
9.792
1,39
5
Núi đá không có rừng cây
48.372
6,88
6
Đất chưa sử dụng khác
45.884
6,53
(Nguồn số liệu thống kê đất đai tính đến 1/10/2003 của Sở Tài nguyên và Môi trường)
Theo biếu số liệu nói trên thì diện tích đất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp cơ bản đã được khai thác hết (thậm chí một phần đã sử dụng vào đất dốc); đất chưa sử dụng của tỉnh còn khá lớn song hầu hết là đất đồi núi chưa sử dụng độ dốc lớn, địa hình lại bị chia cắt nên khả năng khai thác ở quy mô tập trung hạn chế.
* Những khó khăn hạn chế trong việc khai thác đất đai để phát triển sản xuất nông nghiệp:
Sơn La là một tỉnh miền núi, địa hình nhiều núi cao, chia cắt mạnh, cơ sở hạ tầng yếu kém, chưa đồng bộ do đó gây nhiều khó khăn trong việc bố trí sản xuất và khai thác tiềm năng đất đai để phát triển sản xuất nông nghiệp.
Khí hậu tuy có những lợi thế nhất định trong việc phát triển một nền sản xuất nông nghiệp đặc thù mang tính hàng hoá đặc sản, nhưng cũng ẩn chứa nhiều yếu tố bất lợi, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển sản xuất nông nghiệp như: gió nóng, mưa đá, lũ quét vào mùa hè, xuất hiện sương muối, rét hại về mùa đông.
Nguồn đầu tư của tỉnh thấp, trên 70% do ngân sách TW cấp. Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trên địa bàn tỉnh còn quá ít. Nhân dân các dân tộc trong tỉnh còn nghèo nên nguồn lực huy động từ nhân dân còn ít, khả năng tái tạo đầu tư của tỉnh còn hạn chế.
Mật độ sông suối trên địa bàn tỉnh tương đối dày, nhưng hầu hết sông suối của Sơn La có trắc diện hẹp, độ dốc dòng chảy lớn. Do đó về mùa khô đa số các sông suối đều không đủ nước cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân trong vùng..Ngoài ra với đặc điểm của sông suối nêu trên cộng với đặc điểm thời tiết mưa nhiều tập trung vào mùa mưa còn gây ra tình trạng sạt lở, lũ quét gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống của nhân dân.
Độ che phủ của rừng thấp, đất dốc, do đó hiện tượng rửa trôi, xói mòn diễn ra phổ biến, làm suy giảm sức sản xuất của đất, tác động tiêu cực đến hệ sinh thái. Do độ che phủ của rừng thấp nên nguồn sinh thuỷ rất hạn chế.
Nước phục vụ cho sản xuất và đời sống, đặc biệt là vấn đề cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp trong mùa khô hiện là một bài toán nan giải đối với tỉnh. Mặc dù chất lượng đất tương đối tốt, đô phì khá, nhưng do thiếu nước nên việc phát triển sản xuất nông nghiệp, thâm canh, tăng vụ gặp nhiều khó khăn.
Nền kinh tế của tỉnh có xuất phát điểm thấp, phổ biến là sản xuất nhỏ, kinh tế chậm phát triển do đó để đầu tư khai thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh nói chung, khai thác lợi thế, tiềm năng đất đai nói riêng còn rất hạn chế.
Trình độ dân trí thấp, một số tập quán canh tác lạc hậu chậm được khắc phục. Nguồn nhân lực tại chỗ tuy dồi dào nhưng hầu hết là lao động chưa qua đào tạo cho nên việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất còn gặp rất nhiều hạn chế.
Phần 2- các định hướng ưu tiên
I. Quan điểm sử dụng đất.
Sơn La là một tỉnh miền núi địa hình chia cắt mạnh, có tới 85% (khoảng 1,2 triệu ha đất) có độ dốc trên 250, độ che phủ của thảm thực vật thấp, đặc điểm khí hậu thời tiết bất lợi mưa nhiều, tập trung theo mùa. Phần lớn diện tích đất cây hàng năm canh tác trên đất dốc, đất bị rửa trôi xói mòn mạnh. Đây là vấn đề bức xúc trong việc sử dụng đất đai, gây tổn hại đối với tài nguyên đất và ảnh hưởng tới các nguồn tài nguyên khác như tài nguyên nước, thảm thực vật và môi trường sinh thái. Do vậy để đảm bảo phát triển bền vững cần phải có những giải pháp sử dụng đất hợp lý, khoa học để ngăn chặn tình trạng suy thoái đất.
II. Mục tiêu.
- Sử dụng đất đai khoa học, hợp lý, ngăn chặn tình trạng suy thoái đất.
- Bảo vệ và phát triển vốn rừng.
- Bảo vệ nguồn nước và sử dụng nước bền vững.
- Bảo tồn đa dạng sinh học.
- Giảm thiểu thay đổi khí hậu.
Các mục tiêu này có quan hệ biện chứng với nhau: Diện tích rừng được bảo vệ và phát triển sẽ tăng độ che phủ, hạn chế được tình trạng rửa trôi, xói mòn làm suy thoái đất đai. Mặt khác độ che phủ tăng sẽ tăng cường khả năng giữ nước, tạo nguồn sinh thuỷ như vậy nguồn nước được tăng cường, bảo vệ có điều kiện để sử dụng nước bền vững. Diện tích đất rừng tăng với cơ cấu giống cây trồng đa dạng sẽ là địa bàn sinh trưởng, phát triển của nhiều loài động vật rừng, như thế sẽ bảo tồn đa dạng sinh học. Độ che phủ tăng với chủng loại cơ cấu cây trồng đa dạng là nhân tố cơ bản cải thiện môi trường khí hậu làm giảm thiểu những tác động bất lợi do yếu tố thời tiết gây ra đối với môi trường.
III. Một số giải pháp kỹ thật sử dụng đất đai hợp lý và ngăn chặn tình trạng suy thoái đất.
Để phát triển theo hướng bền vững cần phải có những giải pháp cụ thể ngăn chặn tình trạng suy thoái đất. ở bài viết này chúng tôi đề xuất một số giải pháp kỹ thuật như sau:
1. Kiên quyết ngăn chặn tình trạng canh tác trồng cây hàng năm trên đất dốc trên 300.
Hiện tại do vấn đề đảm bảo an ninh lương thực, giải quyết cái ăn trước mắt cho một bộ phận nhân dân trong tỉnh nên một phần diện tích đất dốc trên 300 bà con nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã và đang sử dụng để canh tác trồng cây hàng năm (trồng ngô). Nếu tình trạng trên tiếp tục tái diễn đất đai sẽ bị xói mòn, rửa trôi bề mặt làm suy giảm sức sản xuất của đất. Theo tính toán của các nhà khoa học với đất dốc trên 300 nếu độ che phủ bề mặt không đảm bảo thì mỗi năm trung bình lượng bào mòn do các yếu tố khí hậu, thời tiết gây ra lên đến 4,5 - 5 tấn/ha/năm. Trong điều kiện của Sơn La độ dốc lớn mưa lại tập trung theo mùa, mùa mưa đến bề mặt đất vẫn chưa có gì che phủ do đó lượng đất bị rửa trôi sẽ lớn hơn rất nhiều so với mức trung bình nói trên, đến một lúc nào đó diện tích đất trên sẽ trở nên nghèo kiệt, suy thoái không khắc phục được. Do vậy cần phải ngăn chặn tình trạng canh tác trồng cây hàng năm trên đất có độ dốc trên 300, để bảo vệ đất, chống tình trạng rửa trôi, xói mòn đất đai. Đối với diện tích đất có độ dốc lớn trên 300 cần kiên quyết chuyển sang trồng rừng và sản xuất nông, lâm kết hợp (trồng rừng kết hợp với trồng cây ăn quả lâu năm) để tăng thu nhập cho nhân dân.
2. Bố trí cơ cấu cây trồng mùa vụ hợp lý để né tránh những tác động bất lợi của thời tiết.
Do điều kiện đất đai thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp của tỉnh có hạn, vì vậy không tránh khỏi phải sử dụng một phần diện tích đất dốc để canh tác trồng cây hàng năm nhằm đảm bảo an ninh lương thực. Hầu hết diện tích canh tác của Sơn La đều trong tình trạng không chủ động tưới tiêu, phụ thuộc vào nước trời, hệ số sử dụng đất rất thấp (hệ số sử dụng đất toàn tỉnh mới đạt khoảng 1,2 lần). Để đất đai sử dụng có hiệu quả cần phải nâng hệ số sử dụng đất bằng cách nghiên cứu đưa một số giống cây chịu hạn vào sản xuất để tăng thu nhập cho người nông dân. Trong điều kiện thời tiết mưa nhiều, tập trung theo mùa nếu không bố trí cơ cấu mùa vụ hợp lý, khi mùa mưa đến mặt đất không có lớp che phủ thì hiện tượng xói mòn, rửa trôi diễn ra mãnh liệt đất đai sẽ ngày càng suy kiệt. Để khắc phục hạn chế trên cần phải nghiên cứu bố trí mùa vụ né tránh bằng cách gieo hạt vào đầu mùa mưa, khi mùa mưa đến bề mặt đất đã có lớp che phủ sẽ hạn chế được tình trạng rửa trôi bề mặt đất trong mùa mưa lũ.
3. Đầu tư xây dựng ruộng bậc thang, nương định canh ở những khu vực độ dốc lớn.
Trong quá trình sản xuất nông nghiệp bà con nhân dân các dân tộc miền núi đã biết làm ruộng bậc thang để hạn chế xói mòn đất. Đây là một kinh nghiệm quý cần được phát triển trong thời gian tới để canh tác trồng cây hàng năm trên đất dốc. Tuy nhiên để có một ha ruộng bậc thang cần phải đầu tư rất nhiều công sức, tiền của. Có một cách khác cũng hạn chế được việc rửa trôi, chống xói mòn đất có hiệu quả mà chi phí thấp hơn việc xây dựng ruộng bậc thang đó là xây dựng nương định canh trên những vùng đất dốc. Bằng cách trồng các băng cây xanh trên các nương dốc khoảng cách giữa các băng cây xanh tuỳ thuộc vào độ dốc khu đất thông thường cứ khoảng 25 - 30 m có một băng cây xanh, như thế vừa hạn chế được hiện ntượng rửa trôi, xói mòn đất vừa cung cấp thức ăn xanh cho đàn gia súc theo chủ trương phát triển chăn nuôi bò sữa, bò thịt chất lượng cao trên địa bàn tỉnh.
4. Chuyển dần diện tích đất dốc sang trồng cỏ để chăn nuôi đại gia súc.
Trong chương trình phát triển chăn nuôi của tỉnh, nhiều địa phương của tỉnh sẽ trở thành những vùng chăn nuôi bò sữa, bò thịt chất lượng cao. Cùng với phát triển đàn đại gia súc hiện có của tỉnh, việc phát triển đồng cỏ chăn nuôi sẽ là xu thế tất yếu để cung cấp thức ăn xanh cho đàn gia súc trong thời gian tới. Các địa phương cần có phương án chuyển dần những diện tích hiện đang canh tác trồng cây hàng năm trên đất dốc sang trồng cỏ vừa cung cấp thức ăn cho đàn trâu bò vừa tạo được thảm thực vật che phủ bề mặt, hạn chế được tình trạng xói mòn đất đai tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp bền vững.
5. Tổ chức sản xuất nông, lâm kết hợp trên đất dốc.
Đây là một giải pháp kỹ thuật hoàn toàn có tính khả thi trong quá trình thực hiện. Trên những diện tích đất dốc tổ chức trồng rừng kinh tế, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm như vậy vừa có tác dụng bảo vệ đất chống xói mòn vừa cho sản phẩm tăng thu nhập cho người nông dân trong quá trình sản xuất. Thực tế trên địa bàn của tỉnh đã có nhiều mô hình trang trại vườn rừng sản xuất rất hiệu quả, nhiều diện tích đất trống đồi trọc đã được phủ xanh, người sản xuất có thu nhập, đời sống được nâng cao. Cần tổ chức rút kinh nghiệm từ những mô hình này để nhân ra diện rộng trong thời gian tới.
6. Tiến hành việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết cấp xã.
Trong quá tình sử dụng đất cấp xã có vị trí rất quan trọng trong việc tổ chức, bố trí đất đai cho các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của các địa phương thông qua phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết cấp xã. Đây là giải pháp giúp cho việc sử dụng đất tuân thủ theo pháp luật đất đai; đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết của cấp xã đã được phê duyệt; hạn chế tình trạng manh mún trong sản xuất nông, lâm nghiệp; tạo điều kiện cho các địa phương trong việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, các công trình phúc lợi xã hội góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân các dân tộc trong tỉnh; giúp cho các địa phương chủ động trong quá trình tổ chức, bố trí, phân bổ đất đai trong qua trình sản xuất.
Phần 3- các giải pháp tổ chức thực hiện
1. Giải pháp về cơ chế chính sách.
- Sớm ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích sử dụng đất trống, đồi núi trọc đưa vào trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh phục hồi rừng để bảo vệ, cải tạo đất. Đồng thời cũng cần phải có những chế tài kiên quyết đối với những trường hợp cố tình vi phạm luật bảo vệ và phát triển rừng (chặt phá rừng, sử dụng đất lâm nghiệp không đúng mục đích).
- Có chính sách khuyến khích các tổ chức cá nhân nghiên cứu, áp dụng các biện pháp bảo vệ, cải tạo đất, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả đất đai, ngăn chặn tình trạng suy thoái đất, để đảm bảo phát triển bền vững (xây dựng các mô hình canh tác bền vững trên đất dốc, nghiên cứu các giống cây trồng chịu hạn phù hợp với điều kiện đất đai, thời tiết và trình độ canh tác của nhân dân các dân tộc trong tỉnh…).
2. Giải pháp mang tính kinh tế.
- Thu hút các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong và ngoài tỉnh đầu tư khai thác diện tích đất trống, đồi núi trọc đưa vào sản xuất nông, lâm nghiệp bằng cách:
+ Tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục giao đất, cho thuê đất.
+ Miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất (theo quy định của nhà nước).
+ Miễn, giảm các loại thuế (theo quy định của nhà nước).
+ Hỗ trợ lãi xuất vốn vay; hỗ