Trong quá trình phát triển kinh tế nước ta hiện nay, các chính sách tiền tệ
của NHTW đóng vai trò rất quan trọng. Trong đó nghiệp vụ thị trường mở là quan
trọng nhất, bởi vì những nghiệp vụ này là yếu tố quyết định nhất với những thay
đổi trong cơ sở tiền tệ và là nguồn chính gây nên những biến động trong cung ứng
tiền tệ. Tuy nhiên hiện nay còn tồn tại các vấn đề về số lượng, chủng loại hàng
hoá, sức hấp dẫn của nghiệp vụ thị trường mở do nghiệp vụ này còn quá mới mẻ
ở Việt Nam vàchưa thu hút được sự quan tâm của mọi người. Do đó tìm hiểu về
nghiệp vụ thị trường mở là một việc rất cần thiết, mang đến một hiểu biết đầy đủ
tạo cơ sở để có thể đánh giá và đưa ra những giải pháp cho hoạt động thực tế của
chúng ta. Đồng thời trên cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm của các nước có thị trường
tài chính phát triển sẽ có nhiều bài học được rút ra giúp chúng ta có cái nhìn thực tế
về vấn đề này và có hướng đi riêng của mình. Chính vì những lý do trên, chúng em
đã chọn đề tài : “ Nghiệp vụ thị trường mở -Thực trạng và giải pháp phát triển ở
Việt Nam”.
Đề tài gồm có 2 chương :
- Chương I: Lý luận về nghiệp vụ thị trường mở
- Chương II: Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở ở
Việt Nam
26 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5799 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nghiệp vụ thị trường mở: Thực trạng và giải pháp phát triển ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế nước ta hiện nay, các chính sách tiền tệ
của NHTW đóng vai trò rất quan trọng. Trong đó nghiệp vụ thị trường mở là quan
trọng nhất, bởi vì những nghiệp vụ này là yếu tố quyết định nhất với những thay
đổi trong cơ sở tiền tệ và là nguồn chính gây nên những biến động trong cung ứng
tiền tệ. Tuy nhiên hiện nay còn tồn tại các vấn đề về số lượng, chủng loại hàng
hoá, sức hấp dẫn của nghiệp vụ thị trường mở…do nghiệp vụ này còn quá mới mẻ
ở Việt Nam và chưa thu hút được sự quan tâm của mọi người. Do đó tìm hiểu về
nghiệp vụ thị trường mở là một việc rất cần thiết, mang đến một hiểu biết đầy đủ
tạo cơ sở để có thể đánh giá và đưa ra những giải pháp cho hoạt động thực tế của
chúng ta. Đồng thời trên cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm của các nước có thị trường
tài chính phát triển sẽ có nhiều bài học được rút ra giúp chúng ta có cái nhìn thực tế
về vấn đề này và có hướng đi riêng của mình. Chính vì những lý do trên, chúng em
đã chọn đề tài : “ Nghiệp vụ thị trường mở - Thực trạng và giải pháp phát triển ở
Việt Nam”.
Đề tài gồm có 2 chương :
- Chương I : Lý luận về nghiệp vụ thị trường mở
- Chương II : Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở ở
Việt Nam
Đề tài nghiên cứu trên đây là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp nhưng thời
gian nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế nên chuyên đề này
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận đuợc sự góp ý của
các thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 2
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ
THỊ TRƯỜNG MỞ
I/ Khái niệm:
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mà NHTW thực hiện mua vào hoặc
bán ra các giấy tờ có giá nhằm thay đổi cơ số tiền tệ, qua đó tác động đến lượng
tiền cung ứng và lãi suất ngắn hạn của thị trường.
Xét về mặt phạm vi, NHTW có thể mua bán với các đối tác được lựa chọn
theo những điều kiện do NHTW đặt ra, hoặc có thể mua bán với mọi đối tác (nhất
là trong các giao dịch không hoàn lại). Đối tượng giao dịch của NHTW có thể là
chứng khoán Chính phủ, các chứng khoán được phát hành bởi các doanh nghiệp
hoặc ngân hàng, ngắn hoặc dài hạn, tuy nhiên các giao dịch chủ yếu là mua bán
ngắn hạn dưới hình thức trao ngay, có kỳ hạn hoặc hoán đổi. Các giới hạn khác
nhau về đối tượng và đối tác giao dịch của NHTW trong nghiệp vụ thị trường mở
sẽ quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở của từng nước.
II/ Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở
1.Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Việc mua, bán các chứng khoán trên thị trường mở của NHTW với các ngân
hàng thương mại ảnh hưởng ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTW
thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW. Tuy nhiên nếu đối
tác này thực hiện giao dịch qua tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng thì tác động
giống như trên, nhưng nếu giao dịch bằng tiền mặt thì không có ảnh hưởng đến dự
trữ của các ngân hàng.
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 3
Trong tất cả các trường hợp trên, việc tác động đến cơ sở tiền hoàn toàn
giống nhau. Trong trường hợp tác động đến dự trữ của các ngân hàng, nó còn ảnh
hưởng mạnh tới cơ chế mở rộng hay thu hẹp tiền gửi của hệ thống ngân hàng.
Thông qua tất cả các tác động đó, cơ số tiền gửi sẽ ảnh hưởng tới lượng tiền cung
ứng.
2. Tác động qua lãi suất
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có ảnh
hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường :
- Thứ nhất : Khi dự trữ của các ngân hàng bị ảnh hưởng, nó có tác động
đến cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, làm lãi suất trên
thị trường này thay đổi. Sự thay đổi của mức lãi suất ngắn hạn này, thông
qua dự đoán của thị trường và các hoạt động kinh doanh chênh lệch lãi
suất, sẽ truyền tác động của nó đến các mức lãi suất trung và dài hạn trên
thị trường tài chính.
- Thứ hai : Việc mua bán chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan
hệ cung cầu về loại chứng khoán đó trên thị trường và giá cả của nó. Nói
một cách khác, tỷ lệ sinh lời của những chứng khoán này cũng thay đổi,
điều đó tác động đến sự thay đổi của lãi suất thị trường, nếu đó là loại
chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch trên thị trường tài chính.
III Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
1. Các nghiệp vụ thị trường mở
Trong Nghiệp vụ thị trường mở phải có sự tham gia của NHTW bởi vì nếu
không có sự tham gia của NHTW thì khối lượng tiền tệ nói chung sẽ không thay
đổi. Một NHTW bản chứng khoán cho NHTM khác xét trong toàn cục chỉ là sự
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 4
dịch chuyển chứng khoán và di chuyển ngược lại của một phần dự trữ dư thừa từ
NHTM này sang NHTM khác đang thiếu vốn mà thôi
Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở :
- Nghiệp vụ thị trường mở năng động là nghiệp vụ thị trường mở trong đó
NHTW chủ động tiến hành nghiệp vụ nhằm tác động tới khối lượng tiền
trong lưu thông theo hướng mà ngân hàng thấy cần thiết. Chẳng hạn,
NHTW thấy tổng lượng tiền cung ứng và lưu thông không đủ để kích
thích nền kinh tế phát triển nên quyết định thực hiện nghiệp vụ thị trường
mở để tăng lượng tiền đưa vào lưu thông.
- Nghiệp vụ thị trường mở thụ động là nghiệp vụ thị trường mở được tiến
hành nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố ảnh hưởng một
cách không có lợi đối với tổng lượng tiền trong lưu thông. Chẳng hạn khi
tiền gửi của kho bạc và của các ngân hàng trung gian tại NHTW được dự
đoán là giảm xuống, điều này đồng nghĩa với một sự tăng lên của tổng
lượng tiền trong lưu thông, NHTW sẽ tiến hành bán chứng khoán trên thị
trường mở.
1.1 Các giao dịch không hoàn lại ( giao dịch mua bán đứt đoạn):
Những giao dịch không hoàn lại bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến việc
NHTW mua hoặc bán các giấy tờ có giá theo phương thức mua đứt bán đoạn. Hình
thức giao dịch này làm chuyển hẳn quyền sở hữu các chứng khoán là đối tượng
giao dịch. Vì ảnh hưởng của các giao dịch đến dự trữ của các ngân hàng là dài hạn
(đặc biệt trong trường hợp các đối tượng giao dịch là các giấy tờ có giá dài hạn),
nên nó thường được sử dụng trong trường hợp NHTW muốn điều chỉnh cơ cấu
hoặc can thiệp vào thị trường để thay đổi các điều kiện tiền tệ. Nếu những thay đổi
của thị trường tiền tệ là tạm thời, hình thức giao dịch này sẽ không thích hợp, nó có
thể làm lệch hướng chiến lược chính sách tiền tệ bởi tác động dài hạn của nó.
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 5
Nhìn chung các chứng từ có giá được sử dụng trong giao dịch không hoàn lại
phải đáp ứng một số tiêu chí chung
- Là các công cụ nợ
- Mức rủi ro thấp
- Được phát hành bởi các tổ chức đủ điều điện
Tùy thuộc vào cách thức giao dịch của NHTW, lãi suất trong các giao dịch
không hoàn lại có thể là lãi suất thị trường ( trong các giao dịch trên thị trường tự
do), lãi suất đấu thầu (trong đầu thầu lãi suất) hoặc lãi suất công bố của NHTW
trong đầu thầu khối lượng.
1.2 Các giao dịch có hoàn lại
Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong mục đích giao dịch tạm thời là
các hợp đồng mua lại. Khi đó NHTW thực hiện một giao dịch mua chứng khoán từ
đối tác trên thị trường và thỏa thuận bán lại cho đối tác đó vào một ngày xác định
trong tương lai ( hoặc ngược lại).
Thông thường hợp đồng mua lại được sử dụng trong khoảng thời gian rất
ngắn, thường là qua đêm với thời gian là 1 ngày, tuy nhiên cũng có khi thời hạn
hợp đồng mua lại dài hơn, với thời gian lớn hơn 1 ngày được gọi là Repos có thời
hạn.Với loại Repos mở, thời hạn không được xác định trước mà được 2 bên thỏa
thuận lại vào mỗi ngày. Giao dịch theo hợp đồng Repos thực chất là khoản cho vay
có đảm bảo bằng cách chứng khoán có tính thị trường cao.
Cũng giống như giao dịch không hoàn lại, trong giao dịch mua lại, điều kiện
của giấy tờ có giá do NHTW quy định với mục đích hạn chế tối đa các rủi ro và
đáp ứng được mục tiêu giao dịch.
Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong nghiệp vụ thị trường
mở bởi các lý do sau:
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 6
- Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triết tiêu những ảnh
hưởng không dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng .
- Chi phí giao dịch của một hợp đồng mua lại rẻ hơn so với các hợp đồng
mua đứt bán đoạn.
- Thích hợp trong trường hợp các định hướng chính sách tiền tệ không
hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các giải pháp khắc phục.
- Làm giảm thời gian thông báo, do đó mà giảm bớt biến động của thị
trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW .
1.3 Phát hành chứng chỉ nợ của NHTW
NHTW các nước thường sử dụng việc phát hành các chứng chỉ nợ của
NHTW để nhằm hấp thụ khả năng thanh toán đang dư thừa. Nó thích hợp để điều
chỉnh lượng vốn khả dụng ứ thừa trong nền kinh tế và đặc biệt khi các công cụ
nghiệp vụ thị trường mở khác chưa phát huy tác dụng. Các chứng chỉ nọ có thể
được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc dưới hình thức ghi sổ trên cơ sở quy
định chuẩn mực về mệnh giá và thời hạn.
Trong trường hợp này, khối lượng chứng chỉ nợ trúng thầu được hạch toán
vào tài khoản lưu ký chứng khoán tại NHTW hoặc trung tâm lưu ký chứng khoán .
Các chứng chỉ nợ được phát hành dưới hình thức chiết khấu nghĩa là giá phát hành
thấp hơn mệnh giá. Khi đáo hạn người sở hữu nhận được số tiền thanh toán bằng
mệnh giá của chứng chỉ nợ. Chênh lệch giữa giá phát hành và mệnh giá là lãi suất
phát sinh trên giá phát hành, lãi suất áp dụng đối với chứng chỉ nợ là lãi suất đơn
tính theo ngày thực tế với số ngày trong năm là 365 ngày.
1.4 Giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Tương tự như giao dịch có hoàn lại, giao dịch hoán đổi ngoại tệ, bao gồm 2
giao dịch đồng thời là giao dịch giao ngay và giao dịch có kỳ hạn giữa đồng nội tệ
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 7
và ngoại tệ được chọn để giao dịch. Bằng cách đó NHTW có thể ảnh hưởng đến
lượng vốn khả dụng của nền kinh tế trong khoảng thời gian cần thiết tùy thuộc vào
thời hạn của hợp đồng kỳ hạn.
Theo nguyên tắc của nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
trong mỗi giao dịch hoán đổi ngoại tệ, NHTW là các đối tác thỏa thuận các điểm
swap(swap points) để xác định tỷ giá có kỳ hạn từ tỷ giá giao ngay. Nghiệp vụ có
thể được sử dụng để tăng thêm khả năng thanh toán cho nền kinh tế mua bán trao
ngay và bán có kỳ hạn hoặc hấp thụ khả năng thanh toán bán ngoại tệ trao ngay và
mua có kỳ hạn.
1.5 Giao dịch hoán đổi chứng khoán đến hạn
Nghiệp vụ này được thực hiện khi NHTW trao đổi các chứng khoán Chính
phủ mà nó sở hữu đã đến hạn bằng cách chứng khoán Chính phủ mới phát hành.
Nếu giá trị các chứng khoán của Chính phủ đến hạn lớn hơn giá trị chứng khoán
Chính phủ mới thay thế thì dự trữ của hệ thống ngân hàng tăng lên và ngược lại dữ
trữ của hệ thống ngân hàng giảm xuống khi giá trị các chứng khoán mới thay thế
lớn hơn lượng chứng khoán đến hạn.
2.Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở.
2.1 Tín phiếu kho bạc(TB)
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu
hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12
tháng. Đây là công cụ chủ yếu của Nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW
các nước vì:
- Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao.
- Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu
cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau.
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 8
Bộ tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng
phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu kho bạc được phát hành
hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ.
Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của
chính phủ và sự hạn chế tốc độ tăng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ.
2.2 Chứng chỉ tiền gửi. (CD).
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng hay các định chế tài chính
phi ngân hàng, xác nhận món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời gian
nhất định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường
là ngắn hạn. Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ
chế quản lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó
cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ
thuộc vào người gửi tiền. Tình ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là bảo đảm sự
lưu thông của nó và do đó nó được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho Nghiệp
vụ thị trường mở.
2.3 Thương phiếu. (CP).
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc
cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất
định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ xung vốn
ngắn hạn. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu và là tài sản nợ đối với
người phát hành thương phiếu. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho thương
phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh
toán. Việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của
các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại NHTM.
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 9
2.4 Trái phiếu chính phủ.
Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành
nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu
chính phủ được sử dụng phổ biến trong Nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn,
khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp
đến giá cả trái phiếu kho bạc trên thị trường tài chính.
2.5 Trái phiếu chính quyền điạ phương.
Tương tự như trái phiếu chính phủ, những trái phiếu chính quyền địa phương
khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường
người sở hữu trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu
nhập từ trái phiếu.
2.6 Các hợp đồng mua lại.
Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được sử dụng
làm vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay
không thanh toán nợ.
3.Hình thức giao dịch:
Các giao dịch trên thị trường mở có thể thực hiện thông qua phương thức đấu
thầu hoặc giao dịch song phương.
3.1. Đấu thầu
Việc mua hoặc bán các loại giấy tờ có giá giữa NHTW với các NHTM được
thực hiện thông qua phương thức đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất.
Giá của giấy tờ có giá hoặc lãi suất giao dịch trên thị trường mở là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường nói chung. Vì vậy, lãi
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 10
suất cũng là một mục tiêu mà NHTW cần quan tâm khi quyết định phương thức
đấu thầu trên nghiệp vụ thị trường mở . Đấu thầu lãi suất hay đấu thầu khối lượng
trên nghiệp vụ này tuỳ thuộc vào mục tiêu của NHTW . Để có thể can thiệp trực
tiếp vào lãi suất thì thực hiện đấu thầu khối lượng, ở đó lãi suất cố định do NHTW
chỉ đạo. Khi mục tiêu của chính sách tiền tệ nghiêng về giác độ bơm hoặc rút tiền
ra theo một khối lượng mong muốn thì thực hiện đấu thầu lãi suất ở đó lãi suất
được thả nổi theo cung cầu thị trường, còn lãi suất trúng thầu sẽ được xác định tại
điểm đạt được khối lượng cần bơm hoặc rút tiền khỏi lưu thông. Lãi suất chỉ đạo
đối với đấu thầu khối lượng hoặc lãi suất trúng thầu đối với đấu thầu lãi suất là cơ
sở để tính giá của giấy tờ có giá.
3.1.1. Đấu thầu khối lượng:
NHTW công bố mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua
hoặc bán. Các ngân hàng dự thầu khối lượng các loại giấy tờ có giá đó theo mức lãi
suất niêm yết trước.
- Trường hợp tổng khối lượng dự thầu của các ngân hàng bằng hoặc thấp hơn
khối lượng NHTW cần mua hoặc bán thì khối lượng trúng thầu của từng ngân hàng
là khối lượng dự thầu của từng ngân hàng đó.
- Trường hợp tổng khối lượng dự thầu vượt quá khối lượng NHTW cần mua
hoặc bán, khối lượng giấy tờ có giá trúng thầu được phân bổ theo công thức nhất
định.
3.1.2. Đấu thầu lãi suất
NHTW công bố khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc bán. Các ngân hàng
tự đăng ký số tiền ứng với mỗi mức lãi suất do mình chọn. Các đơn dự thầu được
xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần trong trường hợp NHTW cần mua hoặc
lãi suất dự thầu tăng dần nếu NHTW cần bán. Nghĩa là khi NHTƯ mua thì những
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 11
đơn dự thầu ứng với lãi suất cao sẽ được phân bổ trước cho đến khi khối lượng
phân phối được sử dụng hết và ngược lại.
Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu thấp nhất trong trường hợp NHTƯ cần
mua hoặc là lãi suất dự thầu cao nhất nếu NHTW cần bán mà tại mức lãi suất đó
đạt được khối lượng giấy tờ có giá NHTW cần mua hoặc cần bán.
Khối lượng trúng thầu của các ngân hàng là khối lượng của các mức dự thầu
có lãi suất bằng và cao hơn mức lãi suất trúng thầu với trường hợp NHTW mua
giấy tờ có giá hoặc lãi suất dự thầu bằng và thấp hơn lãi suất trúng thầu nếu NHTW
bán giấy tờ có giá.
Phương pháp xác định giá: Sau khi đã xác định được khối lượng trúng thầu
của tổ chức tín dụng, NHTW phải xác định lãi suất áp dụng từng mức trúng thầu
cho tổ chức tín dụng làm cơ sở xác định giá bán hoặc mua giấy tờ có giá. Có 2
phương pháp xác định là theo lãi suất thống nhất ( Hà Lan) hoặc theo lãi suất riêng
lẻ (Mỹ).
3.2. Giao dịch song phương
Thủ tục giao dịch song phương được định nghĩa theo nghĩa rộng là bất cứ thủ
tục giao dịch nào mà NHTW trực tiếp giao dịch với một hoặc một số ít các tổ chức
không thông qua thủ tục đấu thầu. Xuất phát từ định nghĩa này, có hai loại thủ tục
song phương là:
3.2.1. Các giao dịch của NHTW trực tiếp với các đối tác
Là hình thức giao dịch mà NHTW trực tiếp giao dịch với một hoặc một số ít
đối tác trong nước. Các đối tác này được lựa chọn theo tiêu chí chung về tư cách
đối tác.
Các giao dịch song phương trực tiếp với các đối tác có thể được áp dụng với
các giao dịch có hoàn lại, giao dịch không hoàn lại và giao dịch hoán đổi ngoại tệ.
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 12
3.2.2. Giao dịch của NHTW thông qua sở giao dịch chứng khoán và các đại
lí thị trường
Đối với các giao dịch này, các đối tác tham gia giao dịch với NHTW là
không bị giới hạn và thủ tục giao dịch các công cụ nợ được điều chỉnh theo tập
quán thị trường.
Hình thức giao dịch song phương được áp dụng khi có những sự biến động
tiền tệ cục bộ ở từng đối tác của NHTW trong nghiệp vụ thị trường mở
4. Thành viên của nghiệp vụ thị trường mở
Trong NVTTM, NHTƯ là người chủ động lựa chọn người tham gia trên thị
trường. Các đối tác này phải thoả mãn hai điều kiện cơ bản: có tình hình tài chính
lành mạnh và việc giao dịch với các đối tác đó mang lại hiệu quả tích cực đối với
NHTƯ trong việc điều hành CSTT. Căn cứ vào hai điều kiện đó, mức độ quan
trọng của các đối tác được xếp theo trật tự là :
• Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác
• Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
• Các khách hàng lớn.
- Các ngân hàng thương mại: là một trung gian tài chính đặc biệt quan
trọng đứng ra nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế, trên cơ sở đó cấp tín
dụng cho các thành phần kinh tế có nhu cầu. Tính chất đặc biệt của
NHTM là mối liên hệ mang tính hệ thống giữa các Ngân hàng và khả
năng tạo tiền gửi thanh toán. Việc mua bán giấy tờ có giá của đối tác này
sẽ có tác động lan truyền mạnh mẽ tới cả hệ thống. Trong điều kiện
nguồn vốn tín dụng là chủ yếu, những ảnh hưởng này còn chi phối hành
vi của các khách hàng của bản thân ngân hàng, từ đó mà tác động tới các
hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
K 46 – Anh 4 – TCQT B 13
- Các tổ chức tài chính phi ngân hàng: Sau NHTM, NHTƯ thường giao
dịch với các tổ chức tài chính phi Ngân hàng. Động cơ chủ yếu của h