Tiểu luận Những thay đổi lớn trong khung pháp lý điều chỉnh hoạt động ngành ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2009

Nền kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn 2005 – 2009 có nhiều biến động phức tạp và khó lường do bởi những nguyên nhân nội tại cũng như những tác động từ bên ngoài. Để ứng phó với những biến động đó, duy trì sự phát triển ổn định, Chính phủ đã ban hành, thực thi nhiều biện pháp, chính sách thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô, trong đó quan trọng nhất là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Nếu đặt câu hỏi, dấu ấn điều hành của Chính phủ trong giai đoạn 2005 – 2009 thể hiện rõ nhất trên phương diện nào hầu như mọi người sẽ cùng câu trả lời là: trên phương diện chính sách tiền tệ, cụ thể hơn là điều hành hoạt động của ngành ngân hàng trong nước. Đó là cơ sở để chúng tôi thực hiện bài tiểu luận với đề tài: “NHỮNG THAY ĐỔI LỚN TRONG KHUNG PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2005 – 2009”. Với đề tài này, chúng tôi sẽ phân tích theo trình tự thời gian, chia khoảng thời gian từ 2005 đến 2009 thành nhiều giai đoạn nhỏ. Hướng phân tích bắt đầu bằng những đặc điểm lớn của kinh tế - xã hội của từng giai đoạn, các mục tiêu vĩ mô và những chính sách, giải pháp điều hành, điều chỉnh hoạt động của ngành ngân hành đề phù hợp với tình hình vĩ mô và mục tiêu vĩ mô trong giai đoạn đó. Về nội dung phân tích, chúng tôi xác định “khung pháp lý” mang nghĩa rộng, bao hàm các quy định của luật, các văn bản dưới luật (Nghị định, Thông tư) và các chính sách, giải pháp, văn bản (quyết định, chỉ thị) của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước nhằm điều hành hoạt động của ngành ngân hàng trong nước. Việt Nam đã ban hành Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng năm 2004. Tuy nhiên, Luật được xây dựng trên quan điểm chỉ quy định những nội dung chủ yếu, bao quát, những quy định cụ thể do Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn. Trong giai đoạn chỉ 5 năm từ 2005 – 2009 thì không có nhiều điều chỉnh các văn bản mang tính quy phạm pháp luật như Luật, Nghị định. Do đó, “khung pháp lý” cần được hiểu theo nghĩa rộng như trên để có thể thấy được sâu sát hơn những điều chỉnh trong hoạt động của ngành ngân hàng

pdf15 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1717 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những thay đổi lớn trong khung pháp lý điều chỉnh hoạt động ngành ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA SAU ĐẠI HỌC BỘ MÔN QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG Tiểu luận: NHỮNG THAY ĐỔI LỚN TRONG KHUNG PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2005 - 2009 GVHD: TS TRƯƠNG QUANG THÔNG TPHCM, tháng 4 năm 2010 1 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................................................................3 NỘI DUNG...........................................................................................................................................4 1. Giai đoạn từ 2005 đến nửa cuối 2007: ..........................................................................................4 i. Nâng cao năng lực, phát triển hệ thống ngân hàng chuẩn bị cho hội nhập: ..............................4 ii. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. ................................................................5 2. Giai đoạn nửa cuối 2007 đến cuối năm 2008: ...............................................................................7 i. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất .......................................................................................7 ii. Tín phiếu bắt buộc .....................................................................................................................8 iii. Tín dụng .................................................................................................................................9 iv. Tỷ giá ...................................................................................................................................10 3. Giai đoạn cuối 2008 – 2009 ........................................................................................................11 i. Lãi suất, tỷ lệ dự trữ.................................................................................................................11 ii. Cung ứng tiền tệ.......................................................................................................................12 iii. Tỷ giá ...................................................................................................................................12 4. Sự cần thiết phải xây dựng Luật các tổ chức tín dụng mới .........................................................13 KẾT LUẬN ........................................................................................................................................15 2 LỜI NÓI ĐẦU Nền kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn 2005 – 2009 có nhiều biến động phức tạp và khó lường do bởi những nguyên nhân nội tại cũng như những tác động từ bên ngoài. Để ứng phó với những biến động đó, duy trì sự phát triển ổn định, Chính phủ đã ban hành, thực thi nhiều biện pháp, chính sách thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô, trong đó quan trọng nhất là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Nếu đặt câu hỏi, dấu ấn điều hành của Chính phủ trong giai đoạn 2005 – 2009 thể hiện rõ nhất trên phương diện nào hầu như mọi người sẽ cùng câu trả lời là: trên phương diện chính sách tiền tệ, cụ thể hơn là điều hành hoạt động của ngành ngân hàng trong nước. Đó là cơ sở để chúng tôi thực hiện bài tiểu luận với đề tài: “NHỮNG THAY ĐỔI LỚN TRONG KHUNG PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2005 – 2009”. Với đề tài này, chúng tôi sẽ phân tích theo trình tự thời gian, chia khoảng thời gian từ 2005 đến 2009 thành nhiều giai đoạn nhỏ. Hướng phân tích bắt đầu bằng những đặc điểm lớn của kinh tế - xã hội của từng giai đoạn, các mục tiêu vĩ mô và những chính sách, giải pháp điều hành, điều chỉnh hoạt động của ngành ngân hành đề phù hợp với tình hình vĩ mô và mục tiêu vĩ mô trong giai đoạn đó. Về nội dung phân tích, chúng tôi xác định “khung pháp lý” mang nghĩa rộng, bao hàm các quy định của luật, các văn bản dưới luật (Nghị định, Thông tư) và các chính sách, giải pháp, văn bản (quyết định, chỉ thị) của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước nhằm điều hành hoạt động của ngành ngân hàng trong nước. Việt Nam đã ban hành Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng năm 2004. Tuy nhiên, Luật được xây dựng trên quan điểm chỉ quy định những nội dung chủ yếu, bao quát, những quy định cụ thể do Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn. Trong giai đoạn chỉ 5 năm từ 2005 – 2009 thì không có nhiều điều chỉnh các văn bản mang tính quy phạm pháp luật như Luật, Nghị định. Do đó, “khung pháp lý” cần được hiểu theo nghĩa rộng như trên để có thể thấy được sâu sát hơn những điều chỉnh trong hoạt động của ngành ngân hàng. 3 NỘI DUNG Căn cứ vào những đặc điểm lớn của tình hình kinh tế vĩ mô nước ta, chúng tôi chia khoảng thời gian từ 2005 đến 2009 thành 3 giai đoạn:  Giai đoạn từ 2005 đến nửa cuối 2007: kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, tốc độ tăng trưởng cao, song song với đó là nguy cơ lạm phát cao  Giai đoạn từ nửa cuối 2007 đến nửa cuối 2008: lạm phát ở mức cao  Giai đoạn từ nửa cuối 2008 đến 2009: nền kinh tế bộc lộ nhiều yếu kém, cộng thêm bị tác động bởi khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới 1. Giai đoạn từ 2005 đến nửa cuối 2007: Kinh tế thế giới và Việt Nam trong giai đoạn này có tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2005, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, GDP toàn cầu tăng 3,2%, GDP Việt Nam tăng 8,4%. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự hội nhập kinh tế sâu rộng của nước ta (Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào tháng 11/2006), nguồn vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh (năm 2005 đạt 38,5%). Các nguồn vốn từ bên ngoài gồm đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (FII), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tăng mạnh. Cùng với những thành tựu về tăng trưởng kinh tế và thu hút luồng vốn đó là tình trạng lạm phát. Điều hành của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước trong giai đoạn này hướng tới các mục tiêu: (i) nâng cao năng lực, phát triển hệ thống ngân hàng chuẩn bị cho hội nhập; (ii) đảm bảo tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. i. Nâng cao năng lực, phát triển hệ thống ngân hàng chuẩn bị cho hội nhập: Việc nâng cao năng lực nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM) được chú trọng. Trước tiên, các NHTM nhà nước được bổ sung hơn 12.500 tỷ đồng tăng vốn điều lệ, cải thiện được tỷ lệ an toàn vốn. Đối với NHTM cổ phần, theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ, thì vốn pháp định phải tăng theo lộ trình: đến năm 2008 đạt ít nhất là 1.000 tỳ đồng, năm 2010 là 3.000 tỷ đồng. Ngân hàng Nhà nước có quan điểm không lập mới những ngân hàng nhỏ bé, thậm chí buộc phá sản những ngân hàng nhỏ, hoạt động yếu kém. Trong giai đoạn này, các ngân hàng có nhiều thuận lợi để tăng vốn như: lợi nhuận cao, thị trường vốn phát triển (trong năm 2006, một loạt ngân hàng đã tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu và không có thông tin nào nói về thất bại bởi đây là một mặt hàng hót nhất trên thị trường), bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ các tổ chức tín dụng nước ngoài cũng là một yếu tố hỗ trợ không kém phần quan trọng (tuy nhiên tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài vẫn bị khống chế ở mức 30%). Vốn điều lệ của các ngân hàng tăng nhanh. Một chính sách nhằm giải quyết cuộc chạy đua thành lập ngân hàng mới trong giai đoạn này đó là quy chế thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần được NHNN ban hành trong năm 2007, quy định những điều kiện cần thiết để đảm bảo an toàn hệ thống và cả… tình trạng rao bán cổ phiếu ngân hàng chưa thành lập nở rộ trước đó. Dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán cũng đã được NHNN triển khai. Các NHTM mở rộng mạng lưới phân phối, phát triển sản phẩm mới nhất là sản phẩm ngân hàng điện tử, gần 500 máy ATM được lắp đặt, số lượng thẻ tăng mạnh. Dịch vụ thanh toán thẻ qua hệ thống ATM 4 ngày càng mở rộng, như: nộp phí bo hiểm, tiền điện, nước, cước phí điện thoại,... Mạng Bank Net gồm 11 ngân hàng thương mại thành viên dự kiến sẽ kết nối trong năm 2006. Bên cạnh việc mở rộng về quy mô, đa dạng hóa dịch vụ, cải thiện chất lượng thì vấn đề kiểm soát an toàn cũng có những sự điều chỉnh phù hợp. Năm 2005, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định 493 về phân loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế. Các ngân hàng thương mại triển khai nghiêm túc việc quản lý và đánh giá chất lượng tín dụng theo quy chế mới. Môi trường pháp lý trong hoạt động tiền tệ - ngân hàng ngày càng được hoàn thiện là cần thiết để nâng cao năng lực của hệ thống ngân hàng, nhằm chuẩn bị cho hội nhập. Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ - CP về phòng, chống rửa tiền. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2005; Nghị định số 109/2005/NĐ - CP sửa đổi, bổ sung một số điều về quy định bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, mức tiền gửi được bảo hiểm nâng từ 30 triệu đồng lên 50 triệu đồng. Tại phiên họp thứ 35, Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua Pháp lệnh ngoại hối, có hiệu lực từ ngày 1/6/2006. Pháp lệnh được đánh giá là thống nhất các hoạt động ngoại hối, hướng tới một thị trường ngoại hối mở, tự do hoá và minh bạch. Để cải thiện công tác quản trị tại các ngân hàng, Chính phủ đã cho phép triển khai thí điểm cổ phần hóa là ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (quyết định 230/2005/ QĐ-TTG ngày 21/09/2005 về việc thí điểm cổ phần hóa ngân hàng Ngọai Thương Việt Nam) và Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long (quyết định 266/2005/ QĐ-TTG ngày 27/10/2005 về viêc thí điểm cổ phần hóa ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long). Đây là bước đi phù hợp và là xu thế tất yếu để nâng cao năng lực của ngành ngân hàng Việt Nam. Chính Phủ đã ban hành Nghị định 22//2006/NĐ-CP ngày 28/02/2006 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam nhằm kiểm soát hoạt động các ngân hàng nước ngoài. Đến năm 2006, đã có 35 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 4 công ty liên doanh cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài ii. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát, trên phương diện chính sách tiền tệ, thì cần có sự đồng bộ giữa các công cụ như lãi suất, tăng trưởng tín dụng cũng như thị trường vàng, thị trường tiền tệ (tỷ giá hối đoái). Trong năm 2005, nhằm kiểm soát lạm phát, NHNN đã sử dụng công cụ lãi suất điều chỉnh hoạt động ngân hàng phù hợp với tình hình kinh tế trong những tháng cuối năm. Lãi suất tái cấp vốn sau 3 lần điều chỉnh tăng từ 5,5% lên 6,5% vào cuối năm, lãi suất chiết khấu cũng được điều chỉnh tăng dần từ mức 3,5% đến 4,5%, lãi suất cơ bản sau 2 lần điều chỉnh tăng từ 7,8% lên 8,25%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được duy trì từ tháng 7 năm 2004 ở mức độ cao: tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền đồng đối với NHTM nhà nước, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính tăng từ 2% lên 5%. Riêng ngân hàng nông nghiêp và phát triển nông thôn tăng từ 1,5% lên 4% loại không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng từ 1% lên 2%. Đối với NHTM cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng Trung ương từ 1% lên 2%. Tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 4% lên 8%, trên 12 tháng từ 1% lên 2%. Lãi suất tiền gửi và huy động vốn nội tệ của các ngân hàng thương mại trong năm 2005 bình quân tăng 0,48%/năm - 0,63%/năm của mỗi kỳ hạn so với năm 2004. Lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay USD của 5 các ngân hàng thương mại trong nước cũng tăng lên, với mức tăng 1,25% - 1,5%/năm so với năm 2004. Sang năm 2006, các đợt tăng lãi suất vẫn tiếp diễn và căng thẳng. Có ít nhất 3 đợt tăng lãi suất, tập trung ở lãi suất huy động USD. Với lãi suất VND, mức tăng và các đợt tăng nhẹ nhàng, thưa thớt hơn, chủ yếu từ các ngân hàng thương mại cổ phần. Nhưng căng thẳng trên thị trường lại tập trung chủ yếu vào loại hình lãi suất này. Hiệp hội Ngân hàng, với vai trò trung gian, đã nhiều lần lên tiếng về sự phá rào thỏa thuận của một số ngân hàng, kể cả ngân hàng quốc doanh. Thậm chí Hiệp hội đã từng lên kế hoạch để các ngân hàng ngồi lại với nhau nhưng không thành công. Vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ nguyên các mức lãi suất chủ đạo. Các ngân hàng, đặc biệt là khối cổ phần, vẫn tăng lãi huy động VND và phải tăng lãi cho vay đầu ra: lãi suất huy động vốn tại các NHTM tăng bình quân từ 0,025% đến 0,032%/tháng với kỳ hạn 6 tháng và 0,031% đến 0,034%/tháng kỳ hạn 12 tháng. Ngày 18/01/2006, ban hành Quyết định 03/2006/QĐ-NHNN về việc kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài. Quyết định này giải quyết được 2 vấn đề. Thứ nhất, nó tạo điều kiện cho các ngân hàng được phép kinh doanh vàng giao dịch vàng trên thị trường thế giới. Thứ hai, nó giúp các ngân hàng có thêm nguồn cung tiền đồng để cho vay (các ngân hàng bán vàng vật chất trong nước và mua lại vàng trên tài khoản để bảo hiểm rủi ro về giá). Với cột mốc Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào tháng 11/2006, dòng vốn nước ngoài (FDI, FII) đổ vào Việt Nam ngày càng nhiều. Đồng thời, lượng kiều hối chuyển về nước cũng tăng cao. NHNN buộc phải tung tiền đồng ra để mua bớt ngoại tệ trên thị trường. Dự trữ ngoại tệ đạt 10,6 tỷ USD (so với năm 2006 là 4,6 tỷ USD). Chính lượng cung nội tệ này đóng góp phần quan trọng vào tăng trưởng tín dụng cả năm 2007 ở mức 51,39%. Trong đó, thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán, có tốc độ tăng trưởng cao nhưng chứa rất nhiều rủi ro, là điểm đến ưa thích của khá nhiều dòng vốn tín dụng. Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành Quyết định 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động tổ chức tín dụng của quyết định 457/2005/QĐ-NHNN. Quyết định 457 được chỉnh sửa với một số nội dung quan trọng liên quan đến kinh doanh chứng khoán như sau:  Bổ sung khoản 5 vào điều 6 “nhóm tài sản “Có” có hệ số rủi ro 150%”, bao gồm: các khoản cho vay đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay các công ty chứng khoán với mục đích kinh doanh, mua bán chứng khoán.  Bổ sung điểm 5 vào khoản 1 điều 8 “tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng cho các doanh nhiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm soát, không được cho vay không có đảm bảo đối với các khoản vay nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán ...” Động thái tiếp theo của NHNN là việc ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/05/2007 về việc kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, trong chỉ thị NHNN yêu cầu các TCTD phải khống chế dư nợ vốn vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của TCTD; tập trung cho vay hoạt động sản xuất vật chất đáp ứng yêu cầu xã hội. Phản ứng trước chính sách này, các NHTM đã cố 6 gắng mở rộng mẫu số, tăng cường cho vay (đặc biệt là cho vay bất động sản), nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nóng. Vào tháng 4 năm 2007, Chính Phủ cũng ban hành Quyết định 69/2007/NĐ-CP ngày 20/04/2007 khống chế quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam, do trong năm 2007 sẽ có nhiều loại cổ phiếu ngân hàng ngoài cổ phiếu của Sacombank và Á Châu bắt đầu được niêm yết rộng rãi trên thị trường chứng khoán. Về chính sách tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước khép lại năm 2007 điều hành chính sách tiền tệ bằng quyết định nới rộng biên độ tỷ giá VND/USD (từ +/-0,5% lên +/-0,75%). Đây là lần điều chỉnh thứ 3 từ trước đến nay, thể hiện chủ trương tạo điều kiện kinh tế Việt Nam thích nghi dần với mức độ mở cửa, đưa tỷ giá sát hơn với thị trường. Trước đó, sức ép từ cung ngoại tệ đã đẩy tỷ giá của các ngân hàng thương mại xuống sàn biên độ trong thời gian dài. Tính chung cả năm, tỷ giá VND/USD tương đối ổn định, chỉ tăng bình quân 0,62% so với năm 2006. Nhìn chung, công tác điều hành hoạt động của ngành ngân hàng giai đoạn từ 2005 đến nửa đầu 2007 theo hướng chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt, giúp ngành ngân hàng có sự mở rộng về quy mô, phát triển về chất lượng dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, hoạt động của ngành ngân hàng trong giai đoạn này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, gây nên nhiều tác động cho hoạt động của ngành, của nền kinh tế trong giai đoạn sau. 2. Giai đoạn nửa cuối 2007 đến cuối năm 2008: Từ nửa cuối năm 2007, đã có những dấu hiệu rõ ràng và mạnh mẽ hơn về nguy cơ lạm phát cao. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, các nhà hoạch định chính sách vẫn trấn an dư luận rằng Chính phủ vẫn kiểm soát được lạm phát. Đến đầu năm 2008, tốc độ lạm phát đạt mức phi mã (CPI quí 1/2008 là 10%) thì ưu tiên vĩ mô chuyển mạnh sang kiềm chế lạm phát, ổn định an sinh xã hội, gây nên “cú sốc” đối với nền kinh tế nói chung, hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng. Bám sát mục tiêu vĩ mô, chính sách tiền tệ trong giai đoạn này là siết chặt tiền tệ, bằng các công cụ (i) tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất; (ii) tín phiếu bắt buộc; (iii) tín dụng và (iv) tỷ giá. i. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất Theo số liệu thống kê 5 tháng đầu năm 2007, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao 4,32% biểu hiện cho dấu hiệu lượng cung tiền mặt sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những tháng cuối năm. Ngày 28/05/2007, NHNN ban hành Quyết định 1141/QĐ-NHNN, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của khối ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính là 10% đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng. Riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là 8% và quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác là 4%. Đối với tiền gửi trên 12 tháng là 4% áp dụng cho tất cả TCTD, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính. Đến ngày 16/01/2008, NHNN ban hành Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN, mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% đối với các loại tiền gửi so với tỷ lệ quy định hiện nay. Đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 10% lên 11%; đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ 7 dự trữ bắt buộc được tăng từ 4% lên 5%. Đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11% và tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 4% lên 5%. Các chính sách trên đã buộc các NHTM từ tháng 2/2008 phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm 20.000 tỷ đồng cho NHNN. Thêm vào đó, chính sách phát hành tín phiếu bắt buộc (ngày 17/3/2008) cũng hút hết của NHTM 20.300 tỷ đồng. Hệ thống ngân hàng lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản, có những biến động tiêu cực và nguy hiểm như lãi suất liên ngân hàng liên tục lập kỷ lục (cao nhất là 43%/năm), các ngân hàng chạy đua lãi suất (lãi suất huy động trong dân cư lên đến mức 20%/năm). Nhằm bình ổn thị trường tiền tệ, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu ngày 30/01/2008 đã ký ban hành 2 quyết định số 305 và 306 điều chỉnh lãi suất cơ bản bằng VND, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Theo đó lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%/năm tăng lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ mức 4,5%/năm lên 6,0%/năm; lãi suất cơ bản VND được tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm. Đặc biệt, trong lần điều chỉnh ngày 19/5 (lên 12%), lãi suất cơ bản được trả lại đúng chức năng của nó, trở thành một cơ sở để xác định hành lang pháp lý cho lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại (không quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự). ii. Tín phiếu bắt buộc Ngày 13/2/2008 Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 346/QĐ-NHNN
Luận văn liên quan