Tiểu luận Những vấn đề cơ bản, thực trạng về vấn đề lãi suất hiện nay tại Việt Nam

Cùng với sự phát triển của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước đi lên và đạt được những thành tựu to lớn, đặt biệt là lĩnh vực kinh tế. Trong đó công cuộc đổi mới nền kinh tế ngành Ngân hàng đã đạt được những bước quan trọng trong hệ thống các công cụ lãi suất được coi là nhạy cảm nhất, nó thực sự là vấn đề nóng bỏng nhất, thu hút nhiều sự quan tâm của xã hội. Lãi suất với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ, đặc biệt trong cơ chế thị trường, lãi suất trở thành công cụ đắc lực để Ngân hàng trung ương (NHTW) thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư, lạm phát và tăng trưởng kinh tế Có nhiều loại lãi xuất khác nhau như lãi suất tiền vay, lãi suất tiền gởi, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất liên ngân hàng, Lãi suất còn là một hiện tượng tiền tệ phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu tiền. Cung tiền được xác định một cách ngoại sinh, cầu tiền phản ánh các nhu cầu đầu cơ, phòng ngừa và giao dịch về tiền. Vấn đề về lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Trên tầm vĩ mô lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô rất có hiệu quả của chính phủ thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất định, làm ảnh hưởng kinh tế của cả quốc gia. Và đối với tầm vi mô, lãi suất là cơ sở để cho cá nhân cũng như doanh nghiệp đưa ra quyết định của mình như chi tiêu hay để dành tiết kiệm, đầu tư, mua sắm trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh hay cho vay hoặc gởi tiền vào ngân hàng. Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự của lãi suất trên cơ sở những kiến thức đã học cùng với kiến thức trong khuôn khổ tài liệu cho phép. Chúng tôi xin trình bày những vấn đề của “LÃI XUẤT” để hiểu một cách hệ thống và chi tiết hơn về vấn đề này.

docx19 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5659 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những vấn đề cơ bản, thực trạng về vấn đề lãi suất hiện nay tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự phát triển của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước đi lên và đạt được những thành tựu to lớn, đặt biệt là lĩnh vực kinh tế. Trong đó công cuộc đổi mới nền kinh tế ngành Ngân hàng đã đạt được những bước quan trọng trong hệ thống các công cụ lãi suất được coi là nhạy cảm nhất, nó thực sự là vấn đề nóng bỏng nhất, thu hút nhiều sự quan tâm của xã hội. Lãi suất với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ, đặc biệt trong cơ chế thị trường, lãi suất trở thành công cụ đắc lực để Ngân hàng trung ương (NHTW) thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư, lạm phát và tăng trưởng kinh tế… Có nhiều loại lãi xuất khác nhau như lãi suất tiền vay, lãi suất tiền gởi, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất liên ngân hàng,… Lãi suất còn là một hiện tượng tiền tệ phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu tiền. Cung tiền được xác định một cách ngoại sinh, cầu tiền phản ánh các nhu cầu đầu cơ, phòng ngừa và giao dịch về tiền. Vấn đề về lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Trên tầm vĩ mô lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô rất có hiệu quả của chính phủ thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất định, làm ảnh hưởng kinh tế của cả quốc gia. Và đối với tầm vi mô, lãi suất là cơ sở để cho cá nhân cũng như doanh nghiệp đưa ra quyết định của mình như chi tiêu hay để dành tiết kiệm, đầu tư, mua sắm trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh hay cho vay hoặc gởi tiền vào ngân hàng. Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự của lãi suất trên cơ sở những kiến thức đã học cùng với kiến thức trong khuôn khổ tài liệu cho phép. Chúng tôi xin trình bày những vấn đề của “LÃI XUẤT” để hiểu một cách hệ thống và chi tiết hơn về vấn đề này. Tuy nhiên bàn về lãi suất có nhiều vấn đề đề cập, song trong khuôn khổ một bài tiểu luận nhỏ và kiến thức có hạn, chúng tôi chỉ có thể đề cập đến những vấn đề cơ bản, thực trạng về vấn đề lãi suất hiện nay tại Việt Nam. Làm thế nào để giải quyết được bài toán Lãi suất ở Việt Nam hiện nay một cách hiệu quả nhất? NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA LÃI SUẤT Khái niệm và vai trò của lãi suất Khái niệm Lãi suất là tỷ lệ phần trăm phản ánh tiền lãi phải trả tính trên tổng số vốn vay trong một thời gian nhất định. LS (kỳ) = Số tiền lãi (kỳ) Tổng số vốn cho vay (kỳ) ×100 Thực chất tiền lãi (lợi tức) chính là giá mà người đi vay phải trả cho người cho vay để có được quyền sử dụng tạm thời vốn tín dụng trong thời gian nhất định và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu, thường gọi tắt là giá cả của vốn tín dụng . Vai trò Lãi suất là phương tiện kích thích lợi ích vật chất để thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Đối với ngân hàng, ngoài việc phục vụ tốt, sử dụng công cụ lãi suất bằng cách đưa ra lãi suất huy động tiền gởi cao và thích hợp sẽ kích thích lòng ham muốn lợi nhuận và thu hút được nguồn vốn từ khách hàng. Lãi suất là công cụ kích thích đầu tư phát triển kinh tế. Với mức lãi suất hợp lý sẽ kích thích các nhà đầu tư vay vốn mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh. Lãi suất là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Doanh nghiệp khi vay vốn phải lên kế hoạch kinh doanh và thực sự quan tâm tới kinh doanh để đảm bảo hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi. Ngân hàng phải tích cực sáng tạo nhiều biện pháp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi và thực hiện các biện pháp cho vay hiệu quả, phải đáp ứng được các nhu cầu hạch toán kinh tế. Lãi suất là một trong những công cụ dự báo tình hình nền kinh tế. Sự biến động lãi suất có thể dự báo được một số yếu tố của nền kinh tế. Từ đó các ngân hàng hoặc doanh nghiệp có điều kiện để chuẩn bị và lựa chọn phương án kinh doanh cho phù hợp. Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Sự thay đổi của lãi suất góp phần điều tiết sản xuất và tiêu dùng, cung và cầu hàng hóa, là công cụ để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Phân loại lãi suất Căn cứ vào hình thức tín dụng Lãi suất tín dụng thương mại: áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay dưới hình thức mua ban chịu hàng hoá . Công thức: (LSTM) = Giá hàng hóa bán chịu − (Giá hàng hóa bán trả ngay) (Giá hàng hóa bán trả ngay) ×100 Lãi suất ngân hàng: áp dụng trong quan hệ tín dụng ngân hàng. Bao gồm các loại LS tiền gửi, LS cho vay, LS chiết khấu của NHTM, LS chiết khấu của NHTW, LS tái cấp vốn, LS liên NH, LS cơ bản. Lãi suất tín dụng Nhà nước: áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu . Căn cứ vào thời hạn của tín dụng Lãi suất ngắn hạn: áp dụng đối với các khoảng tín dụng ngắn hạn. Lãi suất dài hạn: áp dụng trong quan hệ trung hạn và dài hạn. Căn cứ vào tính chất ổn định của lãi suất Lãi suất cố định (ổn định): là lãi suất áp dụng cố định trong suất thời hạn vay . Lãi suất biến đổi (thả nổi): Là lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có thể báo trước hoặc không báo trước. Điều chỉnh theo biến động của lãi suất trên thị trường. Căn cứ vào phương pháp trả lãi Lãi suất chiết khấu: Áp dụng khi lãi của khoản cho vay được khấu trừ ngay từ đầu kỳ vào giá trị vốn cho vay. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá trị và được khấu trừ ngay khi Ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. Lãi suất coupon: Là lãi suất được hoàn trả định kỳ cố định cho đến ngày đáo hạn. Lãi suất mãn hạn: Là lãi suất được hoàn trả toàn bộ vào lúc cuối kỳ. Có thể được xác định theo phương pháp lãi suất đơn hoặc theo phương pháp lãi suất kép. Các phương pháp tính lãi suất Phương pháp lãi đơn Là việc tính lãi dựa trên số vốn gốc, không tính trên số lãi do vốn gốc sinh ra. Lãi đơn thường dùng trong các nghiệp vụ tài chính ngắn hạn (thời gian thanh toán dưới một năm và chỉ có một kỳ thanh toán) do khá đơn giản trong việc tính toán. Công thức Số tiền lãi mỗi năm: I 1 = I 2 =…= I n = C 0 ∗i Số tiền cả gốc và lãi : C n = C 0 + C 0 ∗i∗n= C 0 1+i∗n Phương pháp lãi kép Là việc tính lãi bằng cách cộng dồn lãi các kỳ trước vào vốn gốc để tính lãi cho kỳ tiếp theo. Lãi kép thường được sử dụng trong các nghiệp vụ tài chính dài hạn. Công thức tính số tiền lãi và tổng số tiền nhận được mỗi kỳ như sau I 1 = C 0 ∗i C 1 = C 0 + I 1 = C 0 + C 0 ∗i= C 0 1+i I 2 = C 1 ∗i C 2 = C 1 + I 2 = C 0 (1+i ) 2 Tổng quát: C n = C 0 (1+i ) n Trong đó C 0 : Số vốn gốc cho vay ban đầu i : lãi suất C 1 , C 2 ,…, C n : tổng số tiền nhận được vào cuối các thời kỳ I 1 , I 2 ,…, I n : Tiền lãi thu được trong các thời kỳ n : Số thời kỳ tính lãi THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM Tình hình lãi suất Việt Nam qua các giai đoạn 2.1.1 Trước năm 2000 Giai đoạn trước tháng 6/ 1992 NHNN can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các mức lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay. Giai đoạn tháng 6/1992 đến 1995 NHNN đã có nhiều bước điều chỉnh trong điều hành chính sách lãi suất: chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương, xóa bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế. Bắt đầu từ tháng 10/1993 lãi suất cho vay có 2 loại (1.8%/ tháng đối với doanh nghiệp Nhà nước, 2.1%/ tháng cho nền kinh tế ngoài quốc doanh) và NHNN cho phép NHTM được thỏa thuận lãi suất với khách hàng (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng). Giai đoạn từ năm 1996 đến tháng 7/2000 NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và những đổi mới căn bản về điều hành lãi suất. NHNN chỉ quy định mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/ tháng. Cuối tháng 1/1998, NHNN xóa bỏ quy định chênh lệch lãi suất. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt trong các năm 1998, 1999. Trong năm 1997 thay đổi hình thức quy định lãi suất tái cấp vốn sang quy định mức lãi suất cụ thể. Tháng 11/ 1999 NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu được quy định ở mức lãi suất thấp hơn 0,05%/ tháng so với lãi suất tái cấp vốn, tháng 7/2000 NHNN đưa vòa sử dụng nghiệp vụ thị trường mở. 2.1.2. Giai đoạn 2000 - 2009 Giai đoạn từ tháng 8/2000 đến tháng 2002 Đây là giai đoạn sử dụng lãi suất cơ bản cùng với lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn trong điều hành chính sách tiền tệ. TCTD ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không được vượt quá mức lãi suất cơ bản cộng biên độ do Thống đốc NHNN quy định từng thời kỳ. Giai đoạn từ 2002 đến 2005 Năm 2004, tình hình Thế giới có nhiều biến động, giá thành nguyên vật liệu tăng mạnh tạo ra chi phí đẩy làm cho giá cả tăng nhanh, lạm phát gia tăng. Lãi suất tăng không theo kịp lạm phát, đồng tiền mất giá, làm cho lạm phát càng gia tăng. Đến 6 tháng đầu năm 2005, chỉ số giá tăng so năm 2004 là 8.6%, như vậy đã làm cho lãi suất thực tế trong 2 năm này ở mức âm. Lạm phát cao ở nhiều nước, Cục dự trữ liên bang Mỹ tăng lãi suất lên cao cũng trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình lãi suất ở Việt Nam. Tình hình lãi suất cho vay qua các năm 2001-2004 Năm  Lãi suất cho vay (%/năm)  Lạm phát (%/năm)  Lãi suất cho vay thực tế (%/năm)  Tỷ lệ LSCVTT/TP (%)   2001  9.0  0.8  8.2  1052.0   2002  9.2  4.0  5.2  130.0   2003  9.6  3.0  6.6  220.0   2004  10.0  9.5  0.5  5.2   Trước tình hình năm 2004-2005 có nhiều diễn biến, giá cả tăng, nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế cũng tăng, NHNN không tăng mức lãi suất, chủ trương giữ ổn định cả lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, chính sách được áp dụng để kìm chế lạm phát đó là mức dự trữ bắt buộc. Từ năm 2005 đến 2009, đã có nhiều sự thay đổi lãi suất huy động tiền gởi VNĐ của các NHTM tại VN. Sự thay đổi đáng chú ý nhất bắt đầu từ tháng 2 năm 2008 kéo dài cho đến nay. Giai đoạn 2005 đến 2009 Lãi suất thay đổi qua các tháng trong năm. Trong 6 tháng đầu năm 2006, lãi suất huy động và cho vay của các NHTM tăng nhẹ so với đầu năm. Tuy nhiên, trong quý 3/2006, các ngân hàng không tăng lãi suất nhiều như giai đoạn trước. Chỉ một số ngân hàng tăng lãi suất với biên độ nhỏ, nguồn huy động chủ yếu của các ngân hàng phần lớn vẫn là từ cá nhân và các tổ chức kinh tế. Thị trường tài chính tương đối ổn định, chính sách lãi suất của NHNN vẫn được điều hành. So với cuối năm 2005, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trên thị trường tăng nhẹ, chủ yếu trong 7 tháng đầu năm. Lãi suất năm 2007 không có biến động nhiều giữa các tháng trong năm. Năm 2008 có thể được coi là năm của lãi suất khi lãi suất biến động trái chiều với một biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. Những tháng đầu năm 2009, lãi suất huy động của các ngân hàng tăng nhẹ. Từ tháng 5 đến tháng 7/2009, làn sóng đua tăng lãi suất huy động Việt nam đồng (VND) ở các NHTM chưa có dấu hiệu dừng do nhu cầu hấp thụ vốn của nền kinh tế tăng cao, lãi suất huy động VND đang tiến sát về mức trần cho vay. Nhiều NHTM chỉ trong 2 tuần đã tăng lãi suất tiền gửi 2 đến 3 lần. Từ tháng 8 đến tháng10/2009, các ngân hàng gia tăng lãi suất và đỉnh cao nhất lên đến 9,5%. NHNN đã nâng lãi suất cơ bản lên 8% cuối tháng 11, nhưng tình trạng căng thẳng vốn vẫn chưa có chiều hướng được giải quyết khiến NHNN phải có biện pháp răn đe thanh tra toàn diện các ngân hàng nâng lãi suất huy động lên quá 10,5%. 2.1.3. Sau 2009 đến nay Từ đầu năm 2010, lãi suất cho vay bằng VND liên tục tăng cao lên mức 16% - 18%/năm, cá biệt có những trường hợp lên tới 18 - 20%/năm) nên nhiều doanh nghiệp chuyển sang vay bằng Đôla do lãi suất vay USD thấp hơn nhiều so với lãi suất vay VND trong khi rủi ro tỷ giá hối đoái chưa hiện hữu. Cuối năm 2010, lãi suất huy động và cho vay VND của các NHTM đã giảm dần với lãi suất huy động VND không vượt quá 14%/ năm; lãi suất cho vay bình quân 15,27%/năm. Biến động liên tục của thị trường nguyên nhiên vật liệu cơ bản, của thị trường tài chính tiền tệ quốc tế càng làm cho việc kiểm soát lạm phát nói chung và ổn định lãi suất nói riêng của chúng ta thêm khó khăn. Kể từ đầu tháng 11/2010, lãi suất đồng Việt Nam liên tục biến động theo chiều hướng gia tăng, cả lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay. NHNN phải tăng lãi suất cơ bản từ 8% lên 9% sau khi đã cố định nó suốt từ tháng 12/2009 với kỳ vọng thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát. Một mặt, tín hiệu thắt chặt chính sách tiền tệ phát ra dường như chưa đủ mạnh và rõ ràng, mặt khác, tín hiệu đó lại phát ra đúng vào thời điểm cầu tín dụng tăng mạnh. Hơn nữa, tính thanh khoản của các NHTM nước ta không tương đồng, thậm chí rất khác nhau nên các NHTM có thanh khoản không tốt (thường là NHTM qui mô nhỏ và trung bình) buộc phải đẩy lãi suất huy động lên khi giảm sự trông cậy vào thị trường liên ngân hàng, do đó, kéo theo các NHTM có thanh khoản tốt hơn vào cuộc đua lãi suất. 6 tháng đầu năm 2011 Theo quy định của NHNN, trần lãi suất huy động VND được áp 14%/năm chính thức từ 3/3/2011 cho đến nay. Biến động lãi suất theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2011 như sau: Mặt bằng lãi suất ở mức cao. Chính điều này làm cho doanh nghiệp khó tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hàng. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính về tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm nay xác nhận mức lãi suất huy động bình quân là 15,5%, tăng khoảng 3% so với cuối năm ngoái, nhưng thực tế huy động và cho vay của các ngân hàng vẫn vượt qua con số trên. Nhưng thực tế lãi suất huy động của các ngân hàng đều vượt mức 17% trở lên (với các khoản tiền gửi trên 300 triệu đồng ) và lãi suất cho vay ra đều xấp xỉ từ 20% với điều kiện giải ngân không dễ dàng. Bài toán lãi suất được đưa ra hiện nay Không chỉ hệ thống ngân hàng mà cả nền kinh tế đang ở trong tình trạng “tiến thoái lưỡng nan” trước bài toán lãi suất. Trở ngại trước hết là đầu ra lãi suất cho vay. Với “vòng kim cô” lãi suất cơ bản, những khoản vay thông thường không được phép vượt trần 150%. Tuy cơ chế cũng mở một ít khi cho phép thỏa thuận lãi suất đối với những khoản vay tiêu dùng, dư nợ loại này thực ra chiếm tỷ trọng nhỏ. Thực tế, theo lý lẽ của ngân hàng, khi đầu ra bị khống chế chặt, chênh lệch thu hẹp, lợi nhuận suy giảm, buộc họ phải tăng thu phí. Với doanh nghiệp thì ngược lại, từ vài tháng nay họ luôn bị ám ảnh bởi viễn cảnh lãi suất tăng dài dài, ngay cả khi được vay theo lãi suất trần vẫn phải bấm bụng chi thêm nhiều thứ phí không rõ ràng. Trở ngại tiếp theo là đầu vào huy động vốn. Diễn biến gần đây cho thấy vốn trên thị trường đang thực sự khan hiếm. Nếu cứ mãi đuổi theo cơn lốc nâng lãi suất thì thực sự nguy hại, không chắc tăng được nguồn mà còn làm rối thêm tốc độ dịch chuyển vốn từ nơi này qua nơi khác, khuyến khích tâm lý đầu cơ khai thác chênh lệch “giá ngoài, giá trong”. NHTM hiện nay chỉ được ấn định lãi suất huy động dựa theo mức trần lãi suất cơ bản, không thể chạy theo “tiếng gọi của đầu ra”, càng không thể “nước lên thuyền lên” được. Thậm chí gần đây NHNN đã khuyến cáo và dành quyền ấn định trần huy động buộc các ngân hàng chấp hành.Trong điều kiện thị trường vốn có nhiều biến động phức tạp, giá vàng khuynh đảo đã hút một lượng tiền khổng lồ vào dạng cất trữ, các kênh đầu tư bất động sản - chứng khoán còn khát vốn, tâm lý người gửi tiền dao động mạnh... thì cung cầu vốn trở nên mất cân đối không phải là việc khó hiểu.Nguồn vốn tiết kiệm dân cư trước đây vốn được mệnh danh là “hòn đá tảng” trong chiến lược cân đối vốn của các ngân hàng, thì nay cũng không tránh khỏi hiện tượng bất ổn thường xuyên. Bài toán lãi suất đang vấp phải nhiều rối ren, đây là thực tế không thể phủ nhận. Ta có thể lý giải tình trạng rối ren lãi suất theo hai hướng: Thứ nhất, đối với NHTM, về nguyên lý an toàn mà xét, đầu vào bao giờ cũng là gốc, có vai trò quyết định, là căn cứ để xác định đầu ra. Hay nói cách khác, đầu ra phải luôn dựa trên chất lượng và tính ổn định của nguồn lực đầu vào.Tuy nhiên trong thực tế không phải lúc nào nguyên lý này cũng được tôn trọng đầy đủ. Đã có nhiều trường hợp “mặc áo quá đầu”, cho vay vượt tỷ lệ an toàn vốn, dùng vốn liên ngân hàng bù đắp thanh khoản để mở rộng tín dụng, cho vay trung dài hạn ngoài khả năng cân đối vốn ổn định... Rõ ràng đây là những “gót chân Asin”, nếu để kéo dài sẽ gây tổn thương đến tính an toàn hệ thống. Thứ hai, rủi ro về cân đối vốn hiện nay chính là hậu quả của chính sách “độc canh về tín dụng”, nếu không muốn nói là sai lầm lớn về chiến lược kinh doanh. Có thể xem rủi ro này như là “phép thử có giá trị” đối với năng lực quản trị của bộ máy lãnh đạo ở các ngân hàng. Cơ cấu thu nhập của NHTM nếu không được cải thiện theo hướng tăng cường tỷ trọng thu dịch vụ, không mở rộng được năng lực cung ứng sản phẩm dịch vụ theo hướng đa dạng, hiện đại, có hàm lượng công nghệ cao... thì tất yếu sẽ không có lối thoát cho tương lai. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong quá trình tìm kiếm nguồn lực vốn đầu tư phát triển vẫn chưa có lựa chọn nào tốt hơn ngoài tín dụng ngân hàng, không chỉ làm tăng thêm gánh nặng cho tổ chức tín dụng mà bản thân doanh nghiệp cũng vấp phải nhiều hạn chế về cơ hội tiếp cận các nguồn vốn phục vụ mở rộng kinh doanh.Trong lúc đó sàn chứng khoán mang tên “chợ cao cấp” chưa được hoàn hảo, đôi khi khó tin cậy vì thiếu vắng khung pháp lý chặt chẽ cũng như bị thao túng quá mức bởi một bộ phận giới đầu cơ, do vậy chưa đạt đến tầm mức trở thành trụ cột tài chính nhằm hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp. Sau hơn 1 tháng chạy đua tăng lãi suất, hiện tại, các NHTMCP đã đồng loạt hạ mức lãi suất huy động, đặc biệt là lãi suất huy động VNĐ. Thời kỳ nóng bỏng chống lạm phát tạm lắng trong khi tốc độ huy động vốn tăng cao đã tạo sức ép lên tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng. Có vẻ như tình trạng thừa vốn khiến giới ngân hàng phải cắt giảm lãi suất huy động trung bình từ 0,2-0,8%/năm, tùy theo kỳ hạn. Việc các ngân hàng dư thừa nguồn cung đã được dự đoán trước, và xu hướng đồng loạt giảm lãi suất không phải là điều khó đoán định. Những đợt phát hành trái phiếu, huy động vốn ở quy mô lớn, tăng vốn điều lệ theo Nghị định 141, từ đầu năm đã đưa các NHTMCP đến một kết quả gần như ai cũng biết: Thừa vốn khả dụng. Đó là chưa tính đến nguồn tiền ứ đọng từ TTCK không thể giải ngân. Tất cả đã khiến giới ngân hàng buộc phải điều chỉnh để giành lại thế cân bằng, nhất là khi nhu cầu vay vốn bị hạn chế khá nhiều vì nhiều lý do. Khi mà nguồn vốn khả dụng vẫn chưa được khai thông đúng cách, việc giảm lãi suất huy động lại vô tình khiến chính thị trường tài chính - ngân hàng tự bó mình trong "vòng tròn luẩn quẩn". Trong khi đó, các doanh nghiệp lại kêu trời về lãi vay quá cao. NHNN áp trần 14%/năm cho lãi suất huy động, trong khi lạm phát kỳ vọng của cả năm nay ở mức 18-20% và thực tế tất cả các ngân hàng đều phải nói dối với niêm yết lãi suất tiền gửi 14%/năm cho mọi kỳ hạn tiền gửi và thực tế thì huy động ở mức 18%/năm. Một quy định bắt tất cả mọi người phải nói dối là một quy định sai, huỷ hoại lòng tin, tạo ra thói quen dối trá, rất có hại trước mắt và lâu dài đối với sự phát triển của đất nước. Hiện hầu hết các NHTM vẫn giữ bảng niêm yết lãi suất huy động bằng VND ở mức 14%/năm, nhưng đã có ngân hàng phải “cắn răng” huy động vào ở mức gần 20%/năm. Quy định của NHNN về trần LSHĐ 14%/năm vẫn còn hiệu lực nên tất nhiên các NHTM không dám công khai mức lãi suất “thực”. Nhưng nhìn vào động thái của nhiều NHTM, nhất là khối các NHTMCP nhỏ thì thấy họ đang rất căng thẳng về tiền đồng.Ngày 3/3/2011, NHNN ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN nhắc lại quy định mức lãi suất huy động ở các tổ chức tín dụng, kể cả khuyến mãi dưới mọi hình thức, tối đa không vượt quá 14%/năm; các quỹ tín dụng nhân dân không quá 14,5%. Tuy nhiên, thực tế, một số khách hàng cá nhân gửi món tiền lớn tới gần 1 tỷ đồng lại là “khách quen” tại một số NHTM đã nhận được mức lãi suất “ngầm” lớn hơn 1
Luận văn liên quan