Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định, ở
một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ tác động giữa con
người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người và năng lực thực tiễn của
con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri thức,
phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Trong các yếu tố
hợp thành lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể và bao giờ cũng là lực lượng
sản xuất cơ bản, quyết định nhất của xã hội.
Ngày nay, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì nội dung khái
niệm lực lượng sản xuất được bổ sung, hoàn thiện hơn. Các cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ đã làm xuất hiện những khu vực sản xuất mới và làm cho năng suất lao
động tăng lên gấp bội. Năng suất lao động được xem như là tiêu chí quan trọng trọng
nhất để đánh giá trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và suy cho cùng cũng là yếu
tố quyết định sự chiến thắng của một trật tự xã hội này đối với một trật tự xã hội khác
24 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 20766 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và vận dụng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và vận dụng
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
A - Đặt vấn đề
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của những phương
thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao. Mà lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
la hai mặt của phương thức sản xuất , chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua
lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận
động phát triển của xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến, tác động trong toàn tiến trình lịch sử của nhân loại.
Sự vận động, phát triển cùa lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó. Ngược lại, quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương
và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó là động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một
cách giả tạo so với trình độ phát triển củ lực lượng sản xuất sẽ lại kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Do đó, việc giải quyết mâu thẫu giữa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất không phải là đơn giản.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây chúng ta đã không có được sự
nhận thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất. Cơ chế quan liêu, bao cấp đã bóp méo các yếu tố của quan hệ sản xuất, kìm hãm
lực lượng sản xuất, kết quả của sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất đã làm cho mâu thẫu giữa chúng trở nên gay gắt. Điều đó khiến cho nền kinh
tế Việt Nam phải ở trong tình trạng khủng hoảng, trì trệ một thời gian dài.
Chính vì vậy, việc đưa nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ, tác động qua lại
lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc
biệt là trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam
hiện nay.
B - Giải quyết vấn đề
I/Cơ sở lý luận:
1 - Các khái niệm:
a) Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định, ở
một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ tác động giữa con
người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người và năng lực thực tiễn của
con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri thức,
phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Trong các yếu tố
hợp thành lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể và bao giờ cũng là lực lượng
sản xuất cơ bản, quyết định nhất của xã hội.
Ngày nay, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì nội dung khái
niệm lực lượng sản xuất được bổ sung, hoàn thiện hơn. Các cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ đã làm xuất hiện những khu vực sản xuất mới và làm cho năng suất lao
động tăng lên gấp bội. Năng suất lao động được xem như là tiêu chí quan trọng trọng
nhất để đánh giá trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và suy cho cùng cũng là yếu
tố quyết định sự chiến thắng của một trật tự xã hội này đối với một trật tự xã hội khác.
b) Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác động
vào giới tự nhiên, mà còn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Hơn nữa, chỉ có
trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự nhiên và mới
có sản xuất.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ giữa con
người với con người trên ba mặt chủ yếu sau:
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người với con
người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý là quan hệ giữa con người với con người trong
việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động cho nhau.
- Quan hệ phân phối lưu thông là quan hệ giữa con người với con người trong phân
phối và lưu thông sản phẩm xã hội.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại
lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Trong
xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất thì giai cấp đó là giai cấp
thống trị; giai cấp ấy đứng ra tổ chức, quản lý sản xuất và sẽ quyết định tính chất, hình
thức phân phối, cũng như quy mô thu nhập. Ngược lại, giai cấp, tầng lớp nào không có
tư liệu sản xuất thì sẽ là giai cấp, tầng lớp bị thống trị, bị bóc lột vì buộc phải làm thuê
và bị bóc lột dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng có tác động
trở lại quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó không phải là những quan hệ ý chí,
pháp lý mà là quan hệ kinh tế được biểu diễn thành các phạm trù, quy luật kinh tế.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
con người. Sự thay đổi của các kiểu quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất.
c) Phương thức sản xuất:
Phương thức sản xuất là cách thức con người khai thác những của cải vật chất (tư
liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển của xã
hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức
sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong
lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản
xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
2 - Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất:
a) Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan
hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo
thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất (quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội).
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó
quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó,
tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất
phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu
giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát
triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm
lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất
tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục
phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là
phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
b) Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của
lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất không
hoàn toàn thụ động mà tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ
sản xuất có thể tác động đến lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất,
tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao
động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ... và do đó tác động
đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược
lại quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật
chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát
triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ,
chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự
tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
II/Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta là nền kinh tế đang thực hiện những
cuộc cải biến cách mạng toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế đó là việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng
quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa gắn liền với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa, từng bước chuyển nền
kinh tế nhiều thành phần, sản xuất nhỏ là chủ yếu lên nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa.
Trong nền kinh tế quá độ, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo và cùng với
kinh tế hợp tác làm nền tảng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện vai trò ấy, theo Nghị quyết Đại hội VIII,
kinh tế nhà nước phải được tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả, nắm vững những
vị trí then chốt, những lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế như kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại,
dịch vụ quan trọng. Các doanh nghiệp nhà nước phải có quy mô vừa và lớn, phát huy
được ưu thế về kỹ thuật và công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tạo ra
nhiều sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà
nước.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở
chỗ “làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở
đường, hướng dẫn , hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng
vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho
chế độ xã hội mới”.
1 - Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Từ khi hoà bình được lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá
độ tiến lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đặc
điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách
mạng dân tộc - dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta nói rõ hơn
thực trạng kinh tế và chính trị của đất nước: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất
rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề,
những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm
cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta”.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã
hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển,
bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao nhưng vẫn còn cần phải
cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối
với những nước thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ
có thể diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài.
Theo Củ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một
thời lỳ lịch sử mà: “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng
vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,…tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp
và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá, khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã
hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà
trong đó xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
Tuy vậy, sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, bằng sự nỗ lực
sáng tạo của quần chúng, các ngành, các cấp, chúng ta đã vượt qua được khủng hoảng,
đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn trên nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị ổn định, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tận dụng nguồn vốn và
công nghệ, phát huy nội lực đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bộ mặt
kinh tế - xã hội thay da đổi thịt hàng ngày, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề tư duy lý luận cốt lõi thuộc về
đường lối là sự chuyển đổi từ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng và nhà nước ta đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách: phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa có sự quản lý điều tiết của nhà nước.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
cho phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
2 - Những thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được:
Trong những năm qua, Đảng và toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu và đạt được những
thành tựu quan trọng:
Một là, kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân
7 - 8%/năm. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực. Trong GDP hiện nay, tỷ trọng
nông nghiệp là 24,3%, công nghiệp và xây dựng là 36,6%, dịch vụ là 39,1%.
- Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Năm 1995, bình
quân lương thực là 360 kg/người, năm 2000 đã tăng lên 444kg/người. Nghề nuôi trồng
và đánh bắt thuỷ hải sản phát triển khá. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng
bình quân hàng năm 5,7% (mục tiêu đề ra là tăng 4,5 - 5%). Đã tạo được một số mặt
hàng xuất khẩu chủ lực là gạo (đứng thứ 2 - 3 thế giới), cà phê (đứng thứ 3 thế giới),
ngoài ra còn có hồ tiêu, cao su, và hàng thuỷ sản… .
- Công nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được nhiều
tiến bộ. Nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm là 13,5%. Các
sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá: năm 2000 so với năm 1995, công suất điện
gấp 1,5 lần, xi măng gấp 2,1 lần, phân bón gấp trên 3 lần, thép gấp 1,7 lần, mía đường
gấp hơn 5 lần … . Một số sản phẩm quan trọng tăng nhanh như dầu thô, điện, than
sạch, thép cán, xi măng, vải các loại, giấy các loại … . Ngành xây dựng có thể đảm
đương việc thi công những công trình quy mô lớn, hiện đại về công nghệ. Một số vật
liệu xây dựng chất lượng cao sản xuất trong nước đạt tiêu chuẩn châu Âu và khu vực
(gạch lát nền, gạch ốp lát …).
- Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển trong điều kiện khó khăn hơn trước, góp
phần tích cực cho tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống. Giá trị các ngành dịch vụ
tăng 6,8%/năm. Giá trị doanh thu bưu điện tăng bình quân hàng năm 11,3%.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng có bước phát triển khá, đáp ứng yêu cầu trước mắt và
tạo được những năng lực gối đầu cho thời kỳ sau. Các công trình và các trục tuyến giao
thông quan trọng được tập trung đầu tư nâng cấp, bảo đảm giao thông thông suốt trong
cả nước. Hệ thống bưu chính viễn thông được hiện đại hoá về cơ bản. Hệ thống thuỷ
lợi được nâng cấp và phát triển trên các vùng. Cơ sở vật chất của các ngành giáo dục
và đạo tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hoá, du lịch, thể dục thể thao … đều được
tăng cường đáng kể.
- Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. Nước ta đã xây dựng quan hệ thương mại
với trên 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được
nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng
năm trên 21%, gấp 3 lần mức tăng GDP. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục gia tăng,
đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) tiếp tục tăng, góp phần quan trọng phát triển kết cấu hạ tầng.
Hai là văn hoá, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.
- Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng,
hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Năm học 1999 - 2000 so với 1994 -1995 số học
sinh các cấp học, bậc học đều tăng đáng kể, mẫu giáo tăng 1,2 lần, trung học cơ sở 1,6
lần, trung học phổ thông 2,3 lần, đại học 3 lần, học nghề 1,8 lần. Đến hết năm 2000, cả
61 (nay là 64) tỉnh, thành phố đều đã đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xoá
mù chữ; một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu phổ cập trung học cơ sở. Phong trào học tập
phát triển nhanh, chất lượng giáo dục - đào tạo đã có chuyển biến bước đầu. Việc xã
hội hoá giáo dục - đào tạo đã bước đầu được triển khai và phát triển.
- Việc làm và đời sống của nhân dân được giải quyết có nhiều kết quả. Công tác
xoá đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là ở các vùng nghèo, xã
nghèo, đạt kết quả tốt, được đánh giá là một trong những nước giảm tỷ lệ đói nghèo tốt
nhất. Đời sống dân cư nhiều vùng được cải thiện rõ rệt.
- Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình; bảo vệ chăm sóc trẻ em, chăm sóc sức
khoẻ nhân dân; chăm sóc người có công, đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn; thể
dục thể thao … đã đạt nhiều kết quả tốt.
Những thành tựu đạt đạt được trong những năm qua đã tăng cường sức mạnh tổng
hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân, củng cố vững chắc
độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên
trường quốc tế.
3 - Những vấn đề còn tồn tại:
Cùng với những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn có
những nhược điểm:
Một là, trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai.
Đó là do các nguyên nhân.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh