Rừng là hệ sinh thái phức tạp. Ở đó xảy ra các quá trình vật lý, hoá học và sinh học đa dạng. Sản phẩm ban đầu nhận biết được từ rừng đó là gỗ nhưng cây rừng cung cấp nhiều lợi ích cho xã hội hơn so với sản phẩm đơn thuần chỉ là gỗ. Nó bao gồm săn bắn, giải trí, cảnh quan, đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên, hấp thụ carbon và di sản văn hóa. Mặc dù các loại hàng hoá và dịch vụ này không được thị trường hoá, nhưng các nhà kinh tế trên thế giới thừa nhận rằng chúng tạo ra các giá trị đích thực cho xã hội và do đó phải có biện pháp để nâng cao giá trị của rừng.
1. Giá trị dịch vụ môi trường rừng
Cho đến nay, trong khung phân tích TEV, lợi ích của rừng có thể được phân ra các giá trị 'sử dụng' và 'phi sử dụng'. Các giá trị sử dụng liên quan đến lợi ích có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến đời sống con người như là một kết quả của việc sử dụng nguồn lực theo một cách nào đó. Các giá trị phi sử dụng phát sinh từ hàm ý, con người thu dụng tiện ích của rừng vì mục tiêu môi trường, coi rừng là tài nguyên môi trường mà không đề cập đến tính “độc quyền” trong sử dụng của mỗi cá nhân (Dougla, 2004).
Theo Pear 1994, Natasha Land-Mill 2002, giá trị của rừng bao gồm: (i) Giá trị sử dụng và (ii) giá trị phi sử dụng (chưa nhận thức là đã sử dụng) sử dụng. Giá trị sử dụng có giá trị sử dụng trực tiếp (gỗ, củi, LSNG, ) và giá trị sử dụng gián tiếp hay giá trị môi trường và dịch vụ môi trường (bảo vệ đất, điều tiết nước, khí hậu, đa dạng sinh học, giải trí, ). Đối với giá trị chưa sử dụng được chia ra giá trị lưu truyền và giá trị tồn tại.
35 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4965 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Rừng và môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Rừng và môi trườngMỞ ĐẦU
Rừng là hệ sinh thái phức tạp. Ở đó xảy ra các quá trình vật lý, hoá học và sinh học đa dạng. Sản phẩm ban đầu nhận biết được từ rừng đó là gỗ nhưng cây rừng cung cấp nhiều lợi ích cho xã hội hơn so với sản phẩm đơn thuần chỉ là gỗ. Nó bao gồm săn bắn, giải trí, cảnh quan, đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên, hấp thụ carbon và di sản văn hóa. Mặc dù các loại hàng hoá và dịch vụ này không được thị trường hoá, nhưng các nhà kinh tế trên thế giới thừa nhận rằng chúng tạo ra các giá trị đích thực cho xã hội và do đó phải có biện pháp để nâng cao giá trị của rừng.
1. Giá trị dịch vụ môi trường rừng
Cho đến nay, trong khung phân tích TEV, lợi ích của rừng có thể được phân ra các giá trị 'sử dụng' và 'phi sử dụng'. Các giá trị sử dụng liên quan đến lợi ích có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến đời sống con người như là một kết quả của việc sử dụng nguồn lực theo một cách nào đó. Các giá trị phi sử dụng phát sinh từ hàm ý, con người thu dụng tiện ích của rừng vì mục tiêu môi trường, coi rừng là tài nguyên môi trường mà không đề cập đến tính “độc quyền” trong sử dụng của mỗi cá nhân (Dougla, 2004).
Theo Pear 1994, Natasha Land-Mill 2002, giá trị của rừng bao gồm: (i) Giá trị sử dụng và (ii) giá trị phi sử dụng (chưa nhận thức là đã sử dụng) sử dụng. Giá trị sử dụng có giá trị sử dụng trực tiếp (gỗ, củi, LSNG, …) và giá trị sử dụng gián tiếp hay giá trị môi trường và dịch vụ môi trường (bảo vệ đất, điều tiết nước, khí hậu, đa dạng sinh học, giải trí, …). Đối với giá trị chưa sử dụng được chia ra giá trị lưu truyền và giá trị tồn tại.
Dougla (2004) đã dẫn ra những khái niệm về các giá trị của rừng như sau:
Giá trị sử dụng trực tiếp: Là các lợi ích sử dụng trực tiếp của rừng cung cấp ích lợi trực tiếp đối với con người và có thể được phân chia thành sử dụng tiêu hao và không tiêu hao. Giá trị sử dụng tiêu hao bao gồm sản xuất gỗ, thực phẩm và các lâm sản ngoài gỗ khác. Giá trị sử dụng không tiêu hao bao gồm các hoạt động như giải trí và các hình thái du lịch khác, hay thậm chí là xem phóng sự về hình ảnh thiên nhiên rừng trên TV.
Giá trị sử dụng gián tiếp: Là các yếu tố đầu vào được sử dụng cho quá trình sản xuất ra tổng giá trị kinh tế của rừng. Ví dụ, nấm cộng sinh trong đất mang lại giá trị sử dụng gián tiếp qua thúc đẩy sinh trưởng của rừng. Việc tạo nơi cư trú cho động vật hoang dã, luân chuyển carbon, hoặc tích tụ các chất dinh dưỡng cũng được coi là lợi ích gián tiếp vì chúng góp phần vào quá trình của hệ sinh thái rừng trực tiếp sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ có ích lợi cho nền kinh tế, dịch vụ môi trường.
Giá trị phi sử dụng: Là các giá trị được đề cập đến với ý niệm là các nguồn lực có thể được định giá thậm chí kể cả khi không sử dụng chúng, một cách trực tiếp cũng như gián tiếp. Việc coi các giá trị phi sử dụng là các hàng hoá công cộng đơn thuần là phù hợp (McConnell, 1983) và bởi chính bản chất của nó nên các cơ chế thị trường tư nhân không thể cung cấp được loại hàng hoá này.
Để cung cấp luận cứ cho các nhà chính sách và ra quyết định trong những vấn đề liên quan đến quản lý và phát triển rừng bền vững, nâng cao nhận thức của xã hội về lợi ích của tài nguyên rừng đã có rất nhiều nghiên cứu điển hình về một số “giá trị” của rừng.
Các nhà khoa học Trung Quốc đã khẳng định vai trò của rừng trong việc giữ đất và nước là lớn hơn nhiều so với giá trị kinh tế trực tiếp mà nó mang lại. Trần Huệ Tuyền và Trần Văn Đại (1993) đã nghiên cứu khả năng giữ nước của rừng vùng đầu nguồn hồ Tùng Hoa – Côn Minh (Trung Quốc) cho thấy diện tích rừng đầu nguồn 60.000 ha, với độ tàn che 30% hàng năm giữ được khoảng 8,3 triệu mét khối nước.
Giá trị của rừng trong hạn chế xói mòn là rất đáng kể. Xói mòn đất ở nơi phát rừng làm rẫy cao gấp 10 lần ở những khu vực có rừng tự nhiên. Song song với quá trình xói mòn là sự tích tụ chất lắng đọng tại các vùng lòng chảo gây ra thiệt hại cho các công trình thuỷ lợi, ước tính khoảng 4USD/ha/năm (Cruz, Francisco and Coway,1988, Philippine) và các hồ nhân tạo ước tính lên tới 6 tỷ USD/năm (Mahmood, 1987). Trong khi đó, nếu được rừng bảo vệ, lợi ích về chống xói mòn, rửa trôi, kiểm soát dòng chảy có thể lên tới 80 USD/ha/năm (Cruz, Francisco and Coway, 1988, Philippine).
Nghiên cứu về rừng đầu nguồn ở lưu vực sông ở Vân Nam – Trung Quốc liên quan đến khả năng giữ đất, nước và phân bón của rừng cho thấy giá trị này là khoảng 4.450,5 NDT (khoảng 8.455.855 VND, tỷ giá 1 NDT = 1.900 VND) chiếm 87.9% trong khi đó giá trị trực tiếp (than củi, gỗ) là 528.5 NDT (khoảng 1.384.245 VND) chiếm 12,1% (Chương Gia Binh, 2003).
Đánh giá trị của rừng Tapean rộng 1.824 ha tại xã Poey, huyện O Chum, tỉnh Natanakiri, Cam Pu Chia cho thấy giá trị của lâm sản ngoài gỗ khoảng 625 -3.925 USD/hộ gia đình/năm, giá trị của gỗ, củi là 711 USD/ha/năm; lợi ích từ việc bảo về nguồn nước là 75.59 USD/ha/năm; giá trị của đa dạng sinh học là 300 - 511 USD/ha/năm và gá trị của chức năng tích trữ các bon khoảng 6.86 USD/ha/năm (Camillie Bann, 2003).
Với sự ra đời của Nghị định thư Kyoto, vai trò của rừng đã được khẳng định. Đó là khả năng hấp thụ khí các bon níc (CO2) của rừng nhờ khả năng quang hợp. Giá trị hấp thụ CO2 của các khu rừng tự nhiên nhiệt đới thì khoảng từ 500 – 2.000 USD/ha và giá trị này với rừng ôn đới được ước tính ở mức từ 100 – 300 USD (Zhang 2000). Giá kinh tế về giá trị hấp thụ CO2 ở rừng Amazon được ước tính là 1.625USD/ha/năm, trong đó rừng nguyên sinh là 4.000 – 4.400 USD/ha/năm, rừng thứ sinh là 1.000 – 3.000 USD/ha/năm và rừng thưa là 600 – 1.000 USD/ha/năm (Camille Bann và Bruce Aylward, 1994)
Ở vùng cát, các nghiên cứu đều khẳng định vai trò của các đai rừng trong phòng hộ và cải thiện điều kiện canh tác. Một đai rừng có bề rộng 100 m có khả năng cố định 104 – 223 m3 cát. Theo Zheng Haishui (1996), ở khoảng cách bằng 5 - 25 lần chiều cao đai rừng, tốc độ gió giảm 25 - 40%, vùng có hiệu quả phòng hộ nhất là khoảng cách bằng 5 lần chiều cao, tốc độ gió giảm 46 - 69%. Thêm vào đó tiểu khí hậu được cải thiện như nhiệt độ tăng 0,3 – 1,5OC vào mùa đông và giảm 1 - 2OC vào mùa hè; lượng bốc hơi giảm từ 10-30%.
Ngoài các giá trị nêu trên, giá trị cảnh quan/giải trí của rừng là rất lớn. Ví dụ, trong năm 1996, người Bristish Clumbia chi tiêu khoảng 1,9 tỷ USD cho các hoạt động du lịch sinh thái, đóng góp cho ngành thuế của địa phương là 116 triệu USD (Canada Environment, 1996). Theo David W Pearce và Corin G T Pearce (2001) thì cơ chế chi trả cho dịch vụ giải trí và du lịch ở Châu âu và Bắc Mỹ được xác định theo mức "Bằng lòng chi trả - WTP (Willingness To Pay) với mức giá từ 1-3USD/người/lần. Liên quan đến giá trị này Elsser (1999) cho rằng giá trị giải trí của rừng ở Đức được xác định là khoảng 2.2 tỷ USD/năm.
Natasha Land-Mill (2002) đã thu thập và tổng hợp trên 200 kết quả nghiên cứu về giá trị của rừng. Số liệu trung bình về cơ cấu giá trị môi trường của rừng là: Hấp thụ các bon chiếm 27%; Bảo tồn ĐDSH chiếm 25%; Bảo vệ đầu nguồn chiếm 21%; Vẻ đẹp cảnh quan chiếm 17% và giá trị khác chiếm 10%.
Các nhà khoa học đã ước lượng giá trị dịch vụ do hệ sinh thái rừng trên toàn Trái đất là khoảng 33.000 tỷ USD/năm. Riêng ở Bristish Clubia, rừng đã giúp cho các cộng đồng địa phương tránh được chi phí xây dựng các nhà máy lọc nước, ước tính khoảng 7 triệu USD/nhà máy và 300.000 USD vận hành mỗi năm (The World Bank Research observe, vol 13, no 1 (page 13-35), February, 1998).
Kết quả nghiên cứu tổng giá trị rừng trồng vùng Đông dương của Dougla (2004) đã cho biết cơ cấu tổng giá trị của những loài cây bản địa, trong đó: Gỗ chiếm 32%; Carbon 20%; Xói mòn đất 23%; giá trị phi sử dụng 22%; Du lịch 1% và Lâm sản ngoài gỗ 2%. Nhưng, đối với cây mọc nhanh (cây nguyên liệu), Bạch đàn: Gỗ chiếm 53%; Carbon 27; và xói mòn đất 20%.
Nhật Bản, Hội đồng các Nhà khoa học (2001) đã lượng hoá giá trị bằng tiền tất cả các chức năng của hệ thống rừng liên quan đến cuộc sống của con người: Hấp thụ CO2 khoảng 1,239 tỷ tỷ Yên; Nguồn cho năng lượng hoá thạch khoảng 226,1 tỷ Yên; Phòng chống xói mòn đất 28,25 tỷ tỷ yên; Phòng chống sạt lở đất 8,44 tỷ tỷ Yên; Giảm lũ lụt 6,47 tỷ tỷ Yên; Điều hoà nguồn nước 8,7 tỷ tỷ Yên; Làm sạch nguồn nước 14,6 tỷ tỷ Yên; và Du lịch cảnh quan 2,25 tỷ tỷ Yên. (Japanese Forestry Agency, 2005)
Ở nước ta, giá trị của rừng mới chỉ được biết đến như là nơi cung cấp các lâm sản hơn là các giá trị về môi trường. Các nghiên cứu cụ thể về giá trị dịch vụ môi trường của rừng hầu như rất ít và chưa có hệ thống. Tuy vậy, một số nghiên cứu cũng đã làm rõ vai trò của rừng trong hạn chế xói mòn, điều tiết nước.
Tác dụng của rừng về hạn chế xói mòn và điều tiết nguồn nước là khá rõ. Các nghiên cứu về dòng chảy mặt và xói mòn đất của Bùi Ngạnh, Vũ Văn Mễ và Nguyễn Danh Mô (1972-1984), Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải (1996) cho thấy dòng chảy mặt ở rừng tự nhiên hỗn loài, tàn che 0,7 – 0,8 là nhỏ nhất, khoảng 84 m3/năm. Ngược lại ở đất sau khai thác thành bãi chăn thả dòng chảy mặt là cao nhất, khoảng 2230 m3/năm. Liên quan đến dòng chảy mặt các tác giả cũng đã phân tích phân phối lượng nước mưa qua tán rừng. Số liệu nghiên cứu cho thấy lượng nước mưa bị tán rừng ngăn cản chiếm từ 5,7 - 11,6% tuỳ thuộc loại rừng, lượng nước men thân cây là từ 1,1 - 3,5%, lượng nước tạo dòng chảy mặt là 1,7 – 1,8% và lượng nước tạo dòng ngầm và các dạng khác là 88,2 - 92,5%. Khả năng giữ đất của rừng là rất rõ, thể hiện qua lượng đất mất hàng năm. Đối với nơi trồng cây nông nghiệp, Thái Phiên và Nguyễn Tử Siêm (1998) cho rằng ở nơi đất trống (thường có cỏ tự nhiên) hoặc trồng cây theo phương thức bình thường không áp dụng các biện pháp bảo vệ đất thì lượng đất mất hàng năm từ 7 – 23 tấn/ha, có nơi lên đến 50 – 170 tấn/ha tuỳ loại cây trồng, độ dốc và loại đất khác nhau. Việc canh tác nương rẫy cũng gây ra xói mòn nghiêm trọng. Bùi Quang Toản (1962) cho rằng mỗi năm tầng đất bị bào mòn từ 1,5 - 3,0cm, tương đương với từ 130 – 200 tấn/ha/năm. Trên đất có rừng thì xói mòn đất bị hạn chế đáng kể, đặc biệt ở rừng tự nhiên hỗn loài với độ tàn che trên 0,7. Kết quả nghiên cứu khẳng định rằng so với loại hình sử dụng đất khác là nông nghiệp và canh tác rẫy thì xói mòn đất ở rừng tự nhiên hoặc rừng trồng thấp hơn từ 25 - 100 lần.
Việc phá rừng vùng đầu nguồn gây ra những tác động nghiêm trọng, đặc biệt là hiện tượng xói mòn và bồi lắng. Theo Đặng Huy Huỳnh (1990), diện tích lưu vực hồ Hoà Bình là 2.568.000 ha, trong đó diện tích rừng (chủ yếu là rừng nghèo kiệt) chỉ có 266.000 ha. Lượng bùn cát lắng đọng ở hồ Hoà Bình trung bình năm là khoảng 83,6 triệu tấn. Với tốc độ này sau 25 năm lòng hồ thủy điện Hoà Bình sẽ mất 60% dung tích chính.
Vai trò của rừng trong việc giữ nước là rất quan trọng. Võ Minh Châu (1993) cho thấy sự suy giảm diện tích rừng đầu nguồn sông Ngàn Mọ từ 23.971 ha xuống còn 6.000 ha đã làm cho lượng nước ở hồ Kẻ gỗ giảm đi đáng kể, giảm từ 340 triệu mét khối nước xuống còn 60 triệu mét khối do đó không đảm bảo nước cho sản xuất nông nghiệp trên diện tích 6.000 ha.
Rừng có khả năng làm tăng dòng chảy kiệt. Với cùng lượng mưa, dòng chảy kiệt tăng khi diện tích rừng che phủ tăng và ngược lại. Sự ảnh hưởng của rừng đến dòng chảy lũ khá rõ, đặc biệt là đối với sông vừa và nhỏ: khi diện tích rừng giảm khoảng 20% thì lưu lượng lũ trung bình tăng khoảng 12% đối với sông lớn và 40% đối với sông vừa và nhỏ. Trái lại, khi diện tích rừng tăng khoảng 10% thì lưu lượng trung bình mùa lũ giảm khoảng 5% đối với sông lớn và 20% đối với sông vừa và nhỏ (Phạm Thị Hương Lan, 2003).
Việc nghiên cứu tác dụng của rừng phòng hộ và nông lâm kết hợp ở vùng cát đã được một số tác giả thực hiện, như Lâm Công Định (1977), Nguyễn Xuân Quát (1996), Vũ Văn Mễ (1986 -1990), Nguyễn Văn Trương (1993 - 1998) cho rằng các đai rừng phòng hộ có tác dụng tốt trong việc hạn chế tốc độ gió, cải thiện tiểu khí hậu và độ phì đất.
Như vậy có thể thấy rõ vai trò của rừng trong việc giữ đất, điều tiết và giữ nước. Nhưng, cho đến nay chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến giá trị (bằng tiền) của việc giữ đất, điều tiết và giữ nước của rừng. Đặc biệt, khi có những hành vi phá hoại rừng hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng thì việc tính những giá trị này của rừng thường bị bỏ qua.
Nghiên cứu lượng giá tổng giá trị kinh tế đã được áp dụng đối với rừng ngập mặn. N. Adger và N.H Trí (1998) đã tính toán xác định giá trị của rừng ngập mặn ở Nam Định và ở Cần Giờ. Theo tác giả tổng giá trị của rừng là khoảng 15.900.000đ/ha, trong đó giá trị trực tiếp chiếm từ 0,8 - 1,4% và giá trị gián tiếp là 99,1 - 98,6%. Trong những năm gần đây (2002 - 2004) Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam thực hiện Hợp phần rừng ngập mặn do Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc tài trợ đã áp dụng các mô hình toán học để tính toán và xác định giá trị kinh tế của một số rừng ngập mặn điển hình ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cũng cho rằng giá trị trực tiếp là rất thấp mà chủ yếu là giá trị gián tiếp do rừng mang lại, trung bình giá trị gián tiếp chiếm trên 95% tổng giá trị.
Khả năng hấp thụ CO2 của rừng đã được nghiên cứu cho một số loại rừng trồng. Đối với một số loại rừng trồng (Quế, bạch đàn, keo, thông), thì khả năng hấp thụ CO2 bình quân là khoảng 10 - 20 tấn/năm, tương đương với khoảng 50 - 100 USD/ha/năm. (Vũ Tấn Phương và Ngô Đình Quế, 2005).
Như vậy có thể thấy, trong tổng giá trị kinh tế của rừng thì giá trị môi trường và dịch vụ môi trường của rừng là rất to lớn. Các giá trị môi trường và dịch vụ môi trường của rừng ngày càng được thừa nhận. Việc bảo vệ và phát triển rừng sẽ góp phần quyết định đối với nâng cao giá trị dịch vụ môi trường rừng (không khí, đất, nước, du lịch,…). Bảo vệ, kiểm soát suy thoái rừng còn bao gồm xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, chính sách pháp luật về bảo vệ rừng, đất trồng rừng; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng…
2. Các giải pháp chính sách, quản lý để nâng cao giá trị dịch vụ môi trường rừng.
Trong những năm gần đây, nhận thức về vai trò của rừng trong việc bảo vệ môi trường đã có những thay đổi đáng kể. Các sự cố môi trường như lũ lụt, hạn hán, ấm lên của trái đất,… có xu hướng gia tăng và được xem là hậu quả của vịêc chặt phá rừng. Nhằm đảm bảo dịch vụ môi trường do rừng đem lại, Tổ chức Nông Lâm Quốc tế (ICRAF) đã hình thành Chương trình mang tên "Hỗ trợ nông dân vùng cao trong việc bảo vệ và duy trì các dịch vụ môi trường của rừng" (Rewarding Upland Poor for Environmental Services - RUPES). RUPES được khởi xướng và tháng 1/2002. Mục tiêu của RUPES là thử nghiệm các phương pháp về chi trả cho dịch vụ môi trường và hình thành thể chế và cơ chế cho việc hỗ trợ. Nhiều quốc gia đã tiến hành nghiên cứu và xây dựng cơ chế chi trả cho dịch vụ môi trường - PES (Payment for Environment Services) nhằm quản lý bền vững các dịch vụ môi trường rừng. Ở khu vực Đông Nam Á, hiện nay Philippinevà Indonesia đã bắt đầu các hoạt động về RUPES ở các "điểm nghiên cứu hành động".
Ở Việt Nam, việc lượng giá giá trị của rừng cũng đã được thực hiện, nhưng cũng mới chỉ tập trung vào các giá trị trực tiếp, ví dụ: Hạch toán tài nguyên rừng Quảng Ninh do Chương trình Vịêt Nam - Hà Lan thực hiện năm 2002; Lượng giá kinh tế rừng ở Lương Sơn - Hoà Bình. Ngoài ra việc lượng giá giá trị vẻ đẹp cảnh quan cũng được tiến hành theo phương pháp chi phí đi lại (Travel Cost Method).
Ngoài ra, Trung tâm nghiên cứu sinh thái và Môi trường rừng thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam hiện đang hợp tác với Trung tâm nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR), Tổ chức Nông – Lâm Quốc tế (ICRAF) và Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV) tiến hành nghiên cứu dịch vụ môi trường rừng, cơ chế chi trả dịch vụ môi trường và khả năng hấp thụ các bon của rừng. Giá trị kinh tế về môi trường và dịch vụ môi trường rừng hiện cũng đang được Trung tâm nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng nghiên cứu cho một số loại rừng ở vùng núi phía Bắc và đã đạt được những kết quả bước đầu. Đây là những cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu một cách có hệ thống về giá trị của rừng, đặc biệt là giá trị môi trường và dịch vụ môi trường rừng và là cơ sở cho việc xác định giá rừng theo các mục đích sử dụng và quản lý cụ thể.
Với mục tiêu cải thiện đời sống dân sinh kinh tế - xã hội, từ đó nâng cao ý thức bảo vệ rừng không chỉ cho người dân ở gần rừng mà mọi người, đặc biệt các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng nguồn lợi từ rừng, ngày 24/9/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2010/NĐ-CP về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR).
Trong đó, theo khoản 1 Điều 3 của Nghị định thì môi trường rừng bao gồm các hợp phần của hệ sinh thái rừng: thực vật, động vật, vi sinh vật, nước, đất, không khí, cảnh quan thiên nhiên. Môi trường rừng có các giá trị sử dụng đối với nhu cầu của xã hội và con người, gọi là giá trị sử dụng của môi trường rừng, gồm: bảo vệ đất, điều tiết nguồn nước, phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng chống thiên tai, đa dạng sinh học, hấp thụ và lưu giữ cácbon, du lịch, nơi cư trú và sinh sản của các loài sinh vật, gỗ và lâm sản khác.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3, Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 99/2010/NĐ- CP thì Dịch vụ môi trường rừng là công việc cung ứng các giá trị sử dụng của môi trường rừng để đáp ứng các nhu cầu của xã hội và đời sống của nhân dân, bao gồm các loại dịch vụ:
1. Bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối;
2. Điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội;
3. Dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng, giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính bằng các biện pháp ngăn chặn suy thoái rừng, giảm diện tích rừng và phát triển rừng bền vững;
4. Bảo vệ cảnh quan tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học của các hệ sinh thái rừng phục vụ cho dịch vụ du lịch;
5. Dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên, sử dụng nguồn nước từ rừng cho nuôi trồng thuỷ sản.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 99/2010/NĐ-CP thì chi trả dịch vụ môi trường rừng là quan hệ cung ứng và chi trả giữa bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng.
Tất cả các tổ chức, cá nhân có sử dụng và hưởng lợi từ DVMTR phải chi trả tiền DVMTR. Theo Điều 7 Nghị định số 99/2010/NĐ-CP, bên sử dụng DVMTR là đối tượng phải chi trả, gồm các đối tượng sau:
Thứ nhất, các cơ sở sản xuất thủy điện phải chi trả tiền dịch vụ về bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối; về điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất thủy điện. Mức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đối với các cơ sở này là 20 đồng/1kwh điện thương phẩm.
Thứ hai, đối với cơ sở sản xuất và cung ứng nước sạch, phải chi trả tiền dịch vụ về điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất nước sạch với mức 40 đồng/m3 nước thương phẩm.
Thứ ba, các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch có hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng sẽ phải trả tiền dịch vụ môi trường rừng tính bằng 1%-2% trên doanh thu thực hiện trong kỳ.
Thứ tư, các cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng nước trực tiếp từ nguồn nước phải chi trả tiền dịch vụ về điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất. Mức chi trả đối với đối tượng này sẽ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể.
Thứ năm là các đối tượng phải trả tiền dịch vụ môi trường rừng cho dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng; dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên, sử dụng nguồn nước từ rừng cho nuôi trồng thủy sản.
Khi áp dụng thử nghiệm chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại xã Đa Nhim, tỉnh Lâm Đồng, số tiền thu được từ khai thu phí dịch vụ đối với các đơn vị khai thác tài nguyên từ rừng như: thủy điện Đa Nhim, thủy điện Đại Ninh, các Cty cấp nước, các đơn vị kinh doanh du lịch trên địa bàn. Nguồn thu này để chi trả cho công tác bảo vệ rừng. Nhờ đó, tại xã Đa Nhim, tỉnh Lâm Đồng, người dân tham gia nhận khoán bảo vệ rừng tại lưu vực hồ thủy điện Đa Nhim đã nhận được mức chi trả tiền dịch vụ MTR lên tới 290.000 đồng/ha/năm. Đối với hộ nhận khoán BVR trong vùng thí điểm, đơn giá khoán tăng nhiều hơn, diện tích nhận khoán cũng tăng nhiều hơn nên thu nhập bình quân từ tiền nhận khoán tăng thêm