Thành lập vào năm 1920, công ty sản xuất hàng điện tử tiêu dùng M atsushita đã phát 
triển vượt bậc và trở thành công ty điện tử hùng mạnh trong khi Nhật Bản trở thành 
một siêu cường quốc về kinh tế trong những thập niên 1970 và 1980. Cũng giống như 
những doanh nghiệp có từ lâu đời của Nhật Bản, Matsushita được xem như là một 
thành lũy của giá trị truyền thống của Nhật Bản dựa trên sự gắn bó tập thể một cách 
chặt chẽ, lợi ích có qua có lại và sự trung thành đối với công ty. Một số người cho 
rằng sự thành công của Matsushita nói riêng và của Nhật Bản nói chung là do sự tồn 
tại những giá trị của đạo Khổng ở nơi làm việc. Ở Matsushita, nhân viên được chăm 
sóc từ lúc “chào đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay”. Matsushita cung cấp cho họ rất 
nhiều lợi ích khác nhau bao gồm chi phí nhà rẻ, chế độ làm việc suốt đời, hệ thống trả
lương dựa trên thâm niên và những khoản tiền thưởng hưu rất hấp dẫn. Bù lại 
Matsushita kỳ vọng vào sự trung thành và làm việc chăm chỉ từ các nhân viên của nó. 
Đối với thế hệ người dân Nhật Bản sống sau chiến tranh, phải trăn trở để vượt qua nỗi 
nhục thua trận, thì đó dường như là một sự thoả thuận hợp lý. Các nhân viên đã làm 
việc rất chăm chỉ vì sự phát triển của M atsushita, và Matsushita đã bù đắp lại bằng 
những lợi ích rất thỏa đáng như trên.
Tuy nhiên, văn hoá không đứng yên vĩnh viễn. Theo những nhà quan sát, thế hệ sinh 
sau 1964 thiếu đi sự cam kết với truyền thống văn hóa Nhật Bản như cha mẹ của họ. 
Họ lớn lên trong một thế giới giàu hơn, nơi mà họ bị tác động bởi văn hóa phương 
Tây nhiều hơn, nơi mà sự thể hiện cá nhân dường như được ủng hộ hơn. Họ không 
muốn bị buột chặt vào công ty cả đời. Xu hướng này ngày càng rõ hơn trong năm 
1990 khi mà sự đình trệ kinh tế của Nhật Bản kéo dài. Các công ty của N hật Bản bị
thúc ép phải thay đổi cách thức kinh doanh truyền thống. Dần dần các công ty gặp khó 
khăn phải sa thải các nhân viên lớn tuổi, mong muốn xóa bỏ triệt để chế độ làm việc 
suốt đời. Khi những nguời trẻ tuổi nhận thấy điều đó, họ kết luận rằng sự trung thành 
2
với công ty có thể không được đền đáp xứng đáng; và điều đó cho thấy sự duy trì 
truyền thống là rất khó khăn.
Matsushita là công ty cuối cùng quay lưng lại với các truyền thống của Nhật Bản. 
Trong năm 1998 sau nhiều năm khó khăn, Matsushita buộc phải điều chỉnh những 
thông lệ truyền thống của nó. Việc điều chỉnh được khởi xướng từ một nhóm những 
nhà quản lý rất có kinh nghiệm trong các hoạt động của M atsushita ở nước ngoài, mà 
dẫn đầu là Kunio Nakamura, người sau này trở thành Tổng giám đốc của Matsushita 
vào năm 2000
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 15 trang
15 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3159 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự thay đổi văn hóa của nhật bản và matsushita, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 ĐẠI HỌC KINH TÊ TP.HCM 
 KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH 
 LỚP CAO HỌC K22 NGÀY 2 
 ---------- 
Tình huống: 
 SỰ THAY ĐỔI VĂN HÓA 
CỦA NHẬT BẢN VÀ MATSUSHITA 
 GVHD: TS. NGUYỄN HÙNG PHONG 
 Nhóm học viên thực hiện: 
 1. Nguyễn Thị Nguyệt Ánh 
 2. Nguyễn Lê Thư Bảo 
 3. Tạ Văn Chuẩn 
 4. Lê Trí Cường 
 5. Lý Quỳnh Hoa 
 6. Bao Hùng Trọng 
 TP.HCM - 10/2013 
 DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓ M THỰC HIỆN 
STT HỌ TÊN MSHV 
1 NGUYỄN THỊ NGUYỆT ÁNH 7701220053 
2 NGUYỄN LÊ THƯ BẢO 7701220066 
3 TẠ VĂN CHUẨN 7701220110 
4 LÊ TRÍ CƯỜNG 7701220127 
5 LÝ Q UỲNH HO A 7701221531 
6 BAO HÙNG TRỌNG 7701221270 
 TÌNH HUỐNG 
 Sự thay đổi văn hóa của Nhật Bản và Matsushita 
Thành lập vào năm 1920, công ty sản xuất hàng điện tử tiêu dùng M atsushita đã phát 
triển vượt bậc và trở thành công ty điện tử hùng mạnh trong khi Nhật Bản trở thành 
một siêu cường quốc về kinh tế trong những thập niên 1970 và 1980. Cũng giống như 
những doanh nghiệp có từ lâu đời của Nhật Bản, Matsushita được xem như là một 
thành lũy của giá trị truyền thống của Nhật Bản dựa trên sự gắn bó tập thể một cách 
chặt chẽ, lợi ích có qua có lại và sự trung thành đối với công ty. M ột số người cho 
rằng sự thành công của Matsushita nói riêng và của Nhật Bản nói chung là do sự tồn 
tại những giá trị của đạo Khổng ở nơi làm việc. Ở Matsushita, nhân viên được chăm 
sóc từ lúc “chào đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay”. Matsushita cung cấp cho họ rất 
nhiều lợi ích khác nhau bao gồm chi phí nhà rẻ, chế độ làm việc suốt đời, hệ thống trả 
lương dựa trên thâm niên và những khoản tiền thưởng hưu rất hấp dẫn. Bù lại 
Matsushita kỳ vọng vào sự trung thành và làm việc chăm chỉ từ các nhân viên của nó. 
Đối với thế hệ người dân Nhật Bản sống sau chiến tranh, phải trăn trở để vượt qua nỗi 
nhục thua trận, thì đó dường như là một sự thoả thuận hợp lý. Các nhân viên đã làm 
việc rất chăm chỉ vì sự phát triển của M atsushita, và Matsushita đã bù đắp lại bằng 
những lợi ích rất thỏa đáng như trên. 
Tuy nhiên, văn hoá không đứng yên vĩnh viễn. Theo những nhà quan sát, thế hệ sinh 
sau 1964 thiếu đi sự cam kết với truyền thống văn hóa Nhật Bản như cha mẹ của họ. 
Họ lớn lên trong một thế giới giàu hơn, nơi mà họ bị tác động bởi văn hóa phương 
Tây nhiều hơn, nơi mà sự thể hiện cá nhân dường như được ủng hộ hơn. Họ không 
muốn bị buột chặt vào công ty cả đời. Xu hướng này ngày càng rõ hơn trong năm 
1990 khi mà sự đình trệ kinh tế của Nhật Bản kéo dài. Các công ty của N hật Bản bị 
thúc ép phải thay đổi cách thức kinh doanh truyền thống. Dần dần các công ty gặp khó 
khăn phải sa thải các nhân viên lớn tuổi, mong muốn xóa bỏ triệt để chế độ làm việc 
suốt đời. Khi những nguời trẻ tuổi nhận thấy điều đó, họ kết luận rằng sự trung thành 
 1 
với công ty có thể không được đền đáp xứng đáng; và điều đó cho thấy sự duy trì 
truyền thống là rất khó khăn. 
Matsushita là công ty cuối cùng quay lưng lại với các truyền thống của Nhật Bản. 
Trong năm 1998 sau nhiều năm khó khăn, Matsushita buộc phải điều chỉnh những 
thông lệ truyền thống của nó. Việc điều chỉnh được khởi xướng từ một nhóm những 
nhà quản lý rất có kinh nghiệm trong các hoạt động của M atsushita ở nước ngoài, mà 
dẫn đầu là Kunio Nakamura, người sau này trở thành Tổng giám đốc của Matsushita 
vào năm 2000. 
Đầu tiên, Matsushita thay đổi cơ chế thưởng đối với 11.000 nhà quản lý của công ty. 
Trong quá khứ, hệ thống trả thưởng hai lần trong năm dựa hoàn toàn trên thâm niên, 
nhưng bây giờ ở Matsushita việc trả thưởng phải dựa trên kết quả công việc. Trong 
năm 1999, Matsushita tuyên bố quá trình trả thưởng sẽ được thực hiện một cách minh 
bạch; các nhà quản lý phải chứng minh kết quả công việc của mình và mức thưởng mà 
mình xứng đáng được hưởng. Bằng cách đó, Matsushita đã thực hiện một cuộc cách 
mạng trong việc quản trị nguồn nhân lực. 
Cùng lúc đó Matsushita cũng nhắm vào hệ thống làm việc suốt đời và những quyền 
lợi có liên quan. Trong hệ thống mới, những người mới được tuyển dụng có ba lựa 
chọn. Lựa chọn thứ nhất, họ có thể ký hợp đồng với các điều khoản truyền thống như 
là trợ cấp nhà, miễn phí các sự kiện do công ty tổ chức, sử dụng các dịch vụ giá rẻ do 
công ty trợ cấp. Họ cũng có thể nhận những khoản lương hưu bằng hai tháng lương. 
Lựa chọn thứ hai, họ không được hưởng lương hưu được cam kết, nhưng bù lại họ 
được hưởng lương khởi điểm cao hơn và giữ lại những quyền lợi khác như chi phí nhà 
thấp. Lựa chọn thứ ba, họ sẽ từ bỏ tiền thưởng hưu và các dịch vụ được trợ cấp, bù lại 
họ sẽ nhận được tiền lương cao hơn tiền lương trong lựa chọn thứ hai. Trong hai năm 
đầu tiên, số nhân viên mới chọn cách thứ ba chỉ chiếm khoảng 3%, điều đó cho thấy 
rằng sự ao ước về mối quan hệ gia trưởng truyền thống vẫn có còn ảnh hưởng rất lớn 
ở Nhật. Tuy nhiên số người chọn hình thức thu nhập thứ hai đã là 41%. 
Cuộc cách mạng về quản trị nhân sự của Matsushita diễn ra sâu rộng hơn. Cụ thể, khi 
công ty chuyển sang những ngành công nghiệp mới như là phần mềm, kỹ thuật và 
 2 
công nghệ viễn thông mạng, công ty bắt đầu thấy được hiệu quả của việc dân chủ hoá 
trong các nhân viên, nó khuyến khích tính cá nhân, sáng kiến, sự mạo hiểm, dám chịu 
rủi ro trong giới nhân viên trẻ. Tuy nhiên, những sự thay đổi như vậy rất dễ để nói, 
nhưng việc thực hiện rất khó khăn. M atsushita gặp nhiều khó khăn trong việc hủy bỏ 
các cam kết về chế độ làm việc suốt đời đối với các nhân viên lâu năm được thuê 
mướn theo cách thức truyền thống. Điều này một lần nữa được nhấn mạnh vào đầu 
năm 2001 khi mà công ty còn gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Matsushita đã 
tuyên bố sẽ đóng cửa 30 nhà máy ở Nhật Bản, cắt giảm 13.000 lao động trong đó có 
1.000 lao động quản lý, và bán đi một lượng lớn tài sản trong ba năm tới. Trong khi 
đó là cơ hội để kết liễu hệ thống thuê mướn nhân công suốt đời (đây là lần đầu tiên 
trong lịch sử công ty sa thải nhân công) tuy nhiên công ty vẫn thông báo rằng các bộ 
phận quản lý không nhất thiết phải sa thải mà thay vào đó họ sẽ được chuyển sang 
những bộ phận có mức tăng trưởng cao hơn như dịch vụ chăm sóc sức khỏe. 
Với đội ngũ nhân viên quản lý đông đảo (hậu quả của hệ thống tuyển dụng truyền 
thống), một số người hoài nghi khả năng của công ty trong việc thực hiện cuộc cách 
mạng trong quản lý nhân sự. Khi mà tăng trưởng của công ty vẫn thấp, Matsushita 
phải cắt giảm việc thuê mướn thêm lao động, nhưng vẫn duy trì cam kết của họ với 
những lao động lâu năm, thì độ tuổi trung bình của lực lượng lao động dần dần tăng 
lên. Trong năm 1960 nó vào khoảng 25; đầu những năm 2000 độ tuổi trung bình đã là 
35, xu hướng này đi ngược lại với nỗ lực cách mạng hóa đội ngũ lao động cũ 
Matsushita bởi vì chắc chắn rằng những người có nhiều lợi ích từ hệ thống cũ không 
dễ dàng gì bỏ cái cũ và đi theo cái mới. Vào năm 2004, công việc kinh doanh của 
Matsushita bắt đầu có sự tiến bộ. Sau những khoản lỗ nghiêm trọng trong năm 2002, 
công ty bắt đầu hoà vốn vào 2003, và bắt đầu có lãi lại vào năm 2004. Những yếu tố 
như việc tiêu thụ mạnh các thiết bị DVD chắc chắn thúc đẩy sự tăng trưởng, nhưng 
những thay đổi về văn hoá và tổ chức cũng góp phần rất lớn vào sự thành công đó. Nó 
giúp cho công ty có thể khai thác được những cơ hội tăng trưởng mới trong tương lai. 
 3 
Câu hỏi thảo luận: 
1/ Văn hóa truyền thống của Nhật đem lại lợi ích gì cho Matsushita trong giai đoạn 
1950-1980? Những giá trị truyền thống đã gây trở ngại gì cho công ty vào thập niên 
1990 và đầu năm 2000? 
2/ Matsushita mong muốn đạt đến điều gì trong sự thay đổi cách thức quản lý nguồn 
nhân lực? Những trở ngại nào ngăn cản sự thành công của những sự thay đổi này? 
Những tác động đối với Matsushita nếu như: 
(a) những thay đổi này được thực hiện một cách nhanh chóng? 
(b) nó diễn ra trong nhiều năm và thậm chí là nhiều thập niên để thực hiện thành công 
những thay đổi này? 
3/ Matsushita dạy bạn điều gì về mối quan hệ giữa văn hóa xã hội và sự thành công 
trong kinh doanh? 
 ---------- 
 4 
 TRẢ LỜI CÂU HỎI THẢO LUẬN 
1. Văn hóa truyền thống của Nhật đem lại lợi ích gì cho Matsushita trong giai 
 đoạn 1950-1980? Những giá trị truyền thống đã gây trở ngại gì cho công ty vào 
 thập niên 1990 và đầu năm 2000? 
 Lợi ích văn hóa truyền thống của Nhật mang lại cho Matsushita trong giai đoạn 
1950-1980 
 Văn hóa của mỗi quốc gia luôn là phần linh hồn của quốc gia đó, nó được xây 
dựng trong suốt tiến trình hình thành và phát triển của mỗi dân tộc, vì thế nó giải thích 
tại sao mỗi đất nước lại có một nền văn hóa khác nhau. Văn hóa Nhật Bản cũng mang 
những đặc trưng riêng biệt của nó, biểu tượng cho sức mạnh tinh thần của con người 
Nhật Bản. 
 Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Nhật Bản bị tàn phá nặng nề và gần như kiệt 
quệ. Tuy nhiên với những phẩm chất cao thượng, tín nghĩa, vì quốc gia của người 
samurai chân chính; tính chăm chỉ, cần cù, kỷ luật, óc thẩm mỹ, tính đồng đội, trọng 
danh dự; trình độ chuyên môn cao mà Nhật Bản đã làm nên điều thần kỳ và 
Matsushita là một ví dụ. 
 Ở Matsushita, nhân viên được chăm sóc từ lúc “chào đời cho đến khi nhắm mắt 
xuôi tay”. Matsushita cung cấp cho họ rất nhiều lợi ích khác nhau bao gồm chi phí nhà 
rẻ, chế độ làm việc suốt đời, hệ thống trả lương dựa trên thâm niên và những khoản 
tiền thưởng hưu rất hấp dẫn. Bất cứ tổ chức nào mà người lãnh đạo lấy con người làm 
gốc cũng đều có thể tránh được thất bại. Việc coi trọng con người sẽ là sự động viên 
lớn đối với nhân viên để họ có thể phát huy khả năng tại Masushita. Không chỉ vậy 
tinh thần coi trọng con người, không ai không có tài mà M asushita đã chú trọng công 
tác đào tạo để phát triển làm nòng cốt phát triển công ty. Không thể nghi ngờ rằng chế 
độ “tuyển dụng suốt đời” là một trong số những nguyên nhân cho sự đi lên của kinh tế 
Nhật Bản sau chiến tranh. Những công ty lớn áp dụng chế độ này có thể đảm bảo một 
lực lượng lao động ổn định. Đồng thời, vì tương lai của công nhân trong chế độ 
“tuyển dụng suốt đời” gắn liền với công ty, người thuê mướn lao động có thể tin rằng 
trong hầu hết các trường hợp những công nhân này sẽ trung thành và chăm chỉ. 
 Cùng với tinh thần Samurai – tinh thần võ sĩ đạo lâu đời và lòng tự tôn cao của 
người Nhật, đặc biệt sau khi Nhật Bản thua trận sau chiến tranh thế giới thứ 2 đã hình 
thành nên lòng trung thành với công ty của nhân viên, cống hiến cho công ty với khẩu 
hiệu “Tinh thần xí nghiệp phục vụ đất nước”. Đổi lại hệ thống thâm niên, theo đó việc 
trả lương cho các công nhân dựa trên số năm làm việc, có liên quan mật thiết với chế 
độ “tuyển dụng suốt đời” giúp đảm bảo cho việc công nhân tận tụy với công ty trong 
thời gian lâu dài. 
 5 
 Ngoài ra, văn hóa truyền thống của Nhật Bản trong giai đoạn 1950-1980 chịu ảnh 
hưởng lớn bởi những giá trị của đạo Khổng. Đạo Khổng du nhập vào Nhật Bản từ rất 
sớm, kết hợp với tinh thần tôn vinh giới Võ Sĩ Đạo như là một đẳng cấp hàng đầu: Võ 
sĩ - Trí thức - Công Nông - Thương nhân, đã làm nên một xã hội đẳng cấp kiểu Nhật 
Bản với tư tưởng đề cao Lễ - Tín - Nghĩa - Trí - Nhân. Cho đến nay có nhiều thay đổi, 
nhưng tinh thần đó vẫn biểu hiện rất mạnh trong các mối quan hệ xã hội và các tổ 
chức của Nhật Bản thể hiện: tôn ti trật tự (như công ty mẹ và con), quan hệ cấp trên 
cấp dưới (như hội sở và chi nhánh), lớp trước và lớp sau (như khách hàng và người 
bán hàng). Điều này mang lại ưu điểm là cơ cấu, cách thức tổ chức rõ ràng dễ quản lý, 
cấp dưới tôn trọng và phục tùng mệnh lệnh cấp trên. Trong giai đoạn đất nước mới 
phục hồi đây là điều tạo ra lợi thế rất lớn để Masushita thành công khi mà không phải 
mất thời gian để sắp xếp, cơ cấu tổ chức. 
 Văn hóa đoàn kết, tinh thần tập thể thể hiện trên những phương diện: “Mọi thành 
viên gắn kết với nhau trên tinh thần chia sẻ trách nhiệm hơn là bởi hệ thống quyền 
lực”. Người ta hỏi nhau làm ở đâu hơn là hỏi gia đình như thế nào. Sự dìu dắt của lớp 
trước đối với lớp sau, sự gương mẫu của những người lãnh đạo làm cho tinh thần cộng 
đồng càng bền chặt… Nhờ đó làm cho tinh thần và môi trường làm việc ở Masushita 
được hiệu quả hơn khi mà tổ chức mới phải bước qua giai đoạn sau chiến tranh hỗn 
loạn. Nếu mọi người coi trọng cá nhân thì sẽ nguy hiểm cho tổ chức. 
 Những trở ngại do giá trị truyền thống gây ra cho công ty vào thập niên 1990 và 
đầu năm 2000 
 Trong giai đoạn này Nhật Bản đã không còn giữ được những ưu thế vượt trội so 
với các đối thủ đang lên và Mỹ. Cụ thể là: 
 Đồng Yên Nhật tăng giá quá cao, không còn lợi thế giá rẻ và chi phí thấp. 
 Các đối thủ của Nhật dần học hỏi các phương pháp quản trị ưu việt của N hật và 
từng bước đuổi kịp Nhật. 
 Khoa học công nghệ phát triển quá nhanh, sự cạnh tranh càng ngày càng lớn, khoa 
học phát triển khiến chu kỳ sản phẩm càng ngày càng ngắn. Yêu cầu văn hoá tổ chức 
linh hoạt hơn, sáng tạo hơn và thay đổi nhiều hơn. Điều này không còn phù hợp với 
văn hoá truyền thống của Nhật. 
 Sự đòi hỏi khách hàng không chỉ bền và tốt mà mẫu mã phải càng đa dạng, nhiều 
tiện ích phù hợp với nhiều phân khúc và đặc biệt giá rẻ. Vì thế chiến lược truyền 
thống của Nhật Bản không còn phù hợp. 
 6 
 Nhật giữ vững những thành tựu, những khoa học trong nước không chú trọng đầu 
tư sản xuất nước ngoài, kết hợp với nguồn nhân lực giá cao trong nước dẫn đến sản 
phẩm của Nhật càng ngày càng có giá cao. 
 Kinh tế Nhật càng lúc càng giàu có, chịu ảnh hưởng bởi nhiều trào lưu mới vì thế 
giới trẻ không còn những đặc điểm đặc trưng như thế hệ trước. Tuy nhiên họ là thành 
phần sáng tạo, mạnh dạn thay đổi và có nhiệt huyết. 
 Đến những năm 1990 Nhật Bản đã phải trải qua một cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ 
nhất kể từ khi kết thúc Thế chiến thứ hai. Từ năm 1988, tỉ lệ tăng trưởng hàng năm 
của quốc gia so với tổng sản phẩm quốc nội thực tế (GDP) đã sụt giảm mạnh. Năm 
1993, GDP thực tế của Nhật Bản giảm 0,2%. Đây là tình hình tồi tệ nhất kể từ năm 
1974 khi GDP giảm tới 0,6% do ảnh hưởng của Cuộc Khủng hoảng Dầu lửa lần đầu 
tiên. 
 Chế độ “tuyển dụng suốt đời” chính là một trong những lý do làm cho kinh tế Nhật 
Bản phải đối đầu với những vấn đề dài hạn như mức tăng trưởng trong sản xuất bị 
chững lại và chi phí tăng cao. Khi một người làm việc quá lâu trong doanh nghiệp sẽ 
làm cho người đó cạn kiệt ý tưởng và giảm đi sự đóng góp cho doanh nghiệp. Ví dụ 
một số quốc gia quy định tổng thống không được làm quá 2 nhiệm kỳ. Thêm vào đó, 
văn hóa lễ nghĩa làm cho người dưới luôn phải phục tùng người trên, điều này giảm đi 
sức sáng tạo của nhân viên trẻ hơn. 
 Qua đó nhận thấy truyền thống quản lý trong các công ty Nhật cụ thể là Mitsushita 
đã có nhiều điểm không còn phù hợp với xu thế mới. Bộ máy cồng kềnh, kém linh 
hoạt và kém sáng tạo đã dần làm mất lợi thế cạnh tranh của Nhật trên thị trường thế 
giới. Vì thế sự thay đổi để tồn tại là tất yếu. Sự thay đổi này phải đi vào trọng tâm đó 
là thay đổi văn hoá công ty cho phù hợp với thời đại mới. 
 Sự thay đổi căn bản trong cách tiếp cận đã tạo nên sự dân chủ lớn hơn, mạnh dạn 
trong giới trẻ hơn. Với văn hoá mới giới trẻ đã hiểu rằng chế độ làm việc trọn đời có 
thể không còn được đền đáp xứng đáng nên họ chủ động hơn trong việc lựa chọn và 
tìm kiếm sự thay thế. Còn giới lãnh đạo cũ cũng phải nỗ lực nhiều hơn để có thể đáp 
ứng được với yêu cầu công việc linh hoạt hơn, thay đổi nhiều hơn. 
 Những điều này làm lung lay những suy nghĩ và truyền thống văn hoá lâu đời của 
Nhật, giới trẻ giờ đây được đóng góp nhiều hơn, được thể hiện nhiều hơn, độc lập với 
tổ chức hơn. Quan hệ gắn kết truyền thống trong công ty Nhật phải dần nhường chỗ 
cho sự độc lập và dân chủ. Điều này là động lực để Nhật có thể thay đổi những truyền 
thống văn hoá, từng bước thích nghi với những điều kiện mới trong thế giới mới có 
nhiều biến động và rủi ro hơn. 
 7 
2. Matsushita mong muốn đạt đến điều gì trong sự thay đổi cách thức quản lý 
nguồn nhân lực? Những trở ngại nào ngăn cản sự thành công của những sự thay 
đổi này? Những tác động đối với Matsushita nếu như: 
 (a) những thay đổi này được thực hiện một cách nhanh chóng? 
 (b) nó diễn ra trong nhiều năm và thậm chí là nhiều thập niên để thực hiện 
thành công những thay đổi này? 
 Đầu tiên, Matsushita thay đổi cơ chế thưởng đối với 11.000 nhà quản lý của công 
ty. Trong quá khứ, hệ thống trả thưởng hai lần trong năm dựa hoàn toàn trên thâm 
niên, nhưng bây giờ ở Matsushita việc trả thưởng phải dựa trên kết quả công việc. 
Trong năm 1999, Matsushita tuyên bố quá trình trả thưởng sẽ được thực hiện một 
cách minh bạch; các nhà quản lý phải chứng minh kết quả công việc của mình và mức 
thưởng mà mình xứng đáng được hưởng. Bằng cách đó, M atsushita đã thực hiện một 
cuộc cách mạng trong việc quản trị nguồn nhân lực. 
 Cùng lúc đó Matsushita cũng nhắm vào hệ thống làm việc suốt đời và những 
quyền lợi có liên quan. Trong hệ thống mới, những người mới được tuyển dụng có ba 
lựa chọn. Lựa chọn thứ nhất, họ có thể ký hợp đồng với các điều khoản truyền thống 
như là trợ cấp nhà, miễn phí các sự kiện do công ty tổ chức, sử dụng các dịch vụ giá rẻ 
do công ty trợ cấp. Họ cũng có thể nhận những khoản lương hưu bằng hai tháng 
lương. Lựa chọn thứ hai, họ không được hưởng lương hưu được cam kết, nhưng bù lại 
họ được hưởng lương khởi điểm cao hơn và giữ lại những quyền lợi khác như chi phí 
nhà thấp. Lựa chọn thứ ba, họ sẽ từ bỏ tiền thưởng hưu và các dịch vụ được trợ cấp, 
bù lại họ sẽ nhận được tiền lương cao hơn tiền lương trong lựa chọn thứ hai. 
 Có thể tóm tắt những thay đổi lớn ở Matsushita bao gồm: 
 - Thay đổi về trả lương theo hiệu quả công việc thay vì trả lương theo thâm niên. 
 - Trả thưởng minh bạch theo kết quả làm việc. 
 - Tuyển người với 3 phương thức lựa chọn. 
 - Cắt giảm công nhân điều chưa từng có. 
 Một cách thức mà Masushita sử dụng đó chính là cắt giảm nhân sự không thật sự 
cần thiết trong giai đoạn khó khăn như giảm 1000 nhà quản lý, 13.000 lao động nhằm 
tiết giảm chi phí nhân lực cũng như chi phí hoạt động đối với các lĩnh vực hoạt động 
không hiệu quả. Luân chuyển những nhân lực có khả năng từ lĩnh vực kém hiệu quả 
tới khu vực dịch vụ, chăm sóc sức khỏe hiệu quả hơn. Việc cắt giảm nhân sự là một 
 8 
hình thức tái cấu trúc doanh nghiệp mà Masushita phải thực hiện để ổn định hoạt động 
vận hành. 
 Mong muốn của Mitsushita khi thực hiện thay đổi cách thức quản lý nguồn nhân 
lực bao gồm: 
 Tăng cường hiệu quả công việc. Hình thức trả lương theo hiệu quả công việc sẽ là 
động lực tốt nhất để kích thích nhân viên laøm vieäc hiệu quả tới mức cao nhất. 
Nhân viên thường tự đặt ra mức trần thu nhập và họ luôn nỗ lực đạt được mức này. 
Chính sách tưởng thưởng theo thành tích, đòi hỏi nhân viên phải chứng minh được 
những thành tựu của mình xứng đáng với mức lương được nhận. Điều này đi ngược 
với văn hóa truyền thống của công ty, nhưng đó là yêu cầu sống còn. 
 Thưởng là cách để nhân viên được hưởng từ thành công của công ty chứ không 
phải là để cảm ơn vì đã gắn bó lâu dài. Dần dần từ bỏ chính sách trọn đời, loại bỏ các 
phúc lợi quá mức không dựa trên năng lực và đóng góp thực tế. 
 Sẵn sàng sa thải để đổi mới tổ chức. Tinh giảm bộ máy để có thể dễ dàng thay đổi 
và giảm chi phí nhân sự và chi phí quản lý trong giai đoạn khó khăn. 
 Khuyến khích sự sáng tạo, văn hoá thay đổi trong tổ chức. Chấp nhận mạo hiểm, 
chấp nhận thay đổi để tìm kiếm cơ hội và đối mặt thách thức. Trao cơ hội và điều kiện 
để giới trẻ tài năng có tiếng nói lớn hơn trong hoạt động của công ty. Qua đó có những 
đãi ngộ tốt hơn để có thể lôi kéo và giữ những thành phần tuổi trẻ sáng tạo, táo bạo và 
khả năng tiếp cận nhanh với tri thức mới ở lại với công ty. 
 (a) Những tác động đối với Matsushita nếu như những thay đổi này được thực hiện 
một cách nhanh chóng 
 Ưu điểm: 
 - Công ty đang có những khó khăn rất lớn vì thế việc thay đổi điển ra càng nhanh 
 công ty càng có cơ hội mau chóng vượt qua khó khăn để đón nhận những thành 
 công mới. 
 - Cùng với sự thay đổi về quản lý nguồn nhân lực,