Tiểu luận Tính sáng tạo trong triết học Mác

Triết học là môn khoa học có lịch sử lâu đời và có rất nhiều đóng góp cho kho tàng tri thức nhân loại. Sự phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái “logic nội tại khách quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp. Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhân thức đúng và cải tạo thế giới. Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải cả chủ nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học.

doc22 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3220 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tính sáng tạo trong triết học Mác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 2 I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA SỰ RA ĐỜI TRIẾT HỌC MÁC 3 1. Điều kiện kinh tế - xã hội 3 2. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên của triết học Mác 4 2.1 Nguồn gốc lý luận triết học Mác 4 2.2 Những thành tựu của khoa học tự nhiên 6 II. TÍNH SÁNG TẠO CỦA TRIẾT HỌC MÁC 7 1. So sánh triết học trước Mác và triết học Mác 7 2. Tính sáng tạo của triết học Mác 9 2.1 Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng 9 2.2 Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - Phát kiến vĩ đại của C.Mác 10 2.3 Sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học, lý luận và thực tiễn 11 3. V.I.Lênin phát triển triết học Mác 13 III. TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TRONG ĐIỀU KIỆN THẾ GIỚI NGÀY NAY 16 KẾT LUẬN 21 NHẬN XÉT BÀI THẢO LUẬN CỦA CÁC NHÓM 22 LỜI NÓI ĐẦU Triết học là môn khoa học có lịch sử lâu đời và có rất nhiều đóng góp cho kho tàng tri thức nhân loại. Sự phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái “logic nội tại khách quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp. Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhân thức đúng và cải tạo thế giới. Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải cả chủ nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học. Vì vậy nhóm 5 chọn đề tài nghiên cứu “Tính sáng tạo trong triết học Mác” cho bài tiểu luận của mình. I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA SỰ RA ĐỜI TRIẾT HỌC MÁC Điều kiện kinh tế - xã hội Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 nền đại công nghiệp cơ khí ra đời và phát triển nhờ cuộc cách mạng công nghiệp với những đại biểu: Anh, Pháp, Đức... Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp lớn nhất. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Pháp đang đi vào hoàn thành. Ở Đức và một số nước Tây Âu khác, cuộc cách mạng công nghiệp cũng làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lớn lên nhanh chóng trong lòng xã hội phong kiến. Nhờ vậy, tính hơn hẳn của chế độ tư bản chủ nghĩa so với chế độ phong kiến được thể hiện một cách rõ rệt. Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp cơ khí, chủ nghĩa tư bản được xác lập và giữ địa vị thống trị; giai cấp công nhân công nghiệp xuất hiện. Đây là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất mới có bản chất cách mạng triệt để nhất. Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Khi chủ nghĩa tư bản được xác lập và phát triển làm cho những mâu thuẫn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt và trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Giai cấp vô sản thể hiện vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhiều cuộc đấu tranh giai cấp đã nổ ra, đi từ thấp đến cao, từ tự phát đến tự giác, từ dân sinh đến dân chủ như cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Lyông ( Pháp) năm 1831-1834; Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 1930 là “phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên thật sự có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị”; Cuộc khởi nghĩa tự phát của thợ dệt Xilêđi năm 1844 đến sự xuất hiện “Đồng minh những người chính nghĩa” – một tổ chức vô sản cách mạng. Trong điều kiện lịch sử xã hội đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng. Vì vậy giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử không chỉ là “kẻ phá hoại” chủ nghĩa tư bản mà còn là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ. Triết học theo cách nói của Heghen, là sự nắm bắt thời đại bằng tư tưởng. Vì vậy, thực tiễn xã hội nói chung, đặc biệt là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan là phải được soi sáng bằng lý luận nói chung và triế học nói riêng. Sự xuất hiện giai cấp vô sản cách mạng đã tạo cơ sở xã hội cho sự hình thành lý luận tiến bộ và cách mạng mới. Lý luận như vậy đã được sang tạo nên bởi C.Mác và Ăngghen, trong đó triết học đóng vai trò là cơ sở lý luận chung – cơ sở thế giới quan và phương pháp luận. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên của triết học Mác Nguồn gốc lý luận triết học Mác Triết học Mác ra đời dựa vào nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên sau đây: Một là: triết học cổ điển Đức, đặc biệt là hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao tư tưởng biện chứng của triết học Hêghen. C.Mác cho rằng tính chất thần bí mà biện chứng đã mắc phải ở triết học Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất; chỉ cần dựng nó lại sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó sau lớp vỏ thần bí. Kế thừa những giá trị trong chủ nghĩa duy vật của Phiơbắc; đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử của nó. Từ đó, Mác cùng với Ăngghen xây dựng học thuyết mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng, một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa duy vật triết học. Từ những giá trị của phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phiơbắc, Mác và Ăngghen đã xây dựng lên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ là chủ nghĩa duy vật biện chứng, một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa duy vật triết học Hai là: Trên cơ sở lý luận kinh tế học tư sản Anh, Mác đã tiếp thu, cải tạo và phát triển trên lập trường của giai cấp vô sản, chỉ ra những quy luật kinh tế cơ bản của CNTB. Hai đại biểu tiêu biểu của kinh tế học cổ điển Anh là Ricardo và A.Smith. Smith đã phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, khẳng định giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Smith có một linh cảm nhạy bén và thiên tài. Ông cảm thấy giá trị của hàng hoá trong CNTB có gì khác với giá trị hàng hóa trong sản xuất giản đơn. Nhưng chưa chỉ ra được khác như thế nào vì ông chưa biết đến phạm trù giá cả. Mác nói linh cảm của Smith còn nằm trong bóng tối, song vẫn là một linh cảm quý giá. Vì Mác đã ít nhiều sử dụng quan điểm lịch sử đó để xem xét các phạm trù kinh tế. Ricardo là người đã đưa KTCT tư sản cổ điển lên đến đỉnh cao và chấm dứt luôn tại đó. Mác đánh giá Ricardo là tiền bố trực tiếp của mình. Thế giới quan của Ricardo duy vật, máy móc và tự phát. Với thế giới quan đó, Ricardo đã đưa ra quy luật phân phối trong CNTB lúc bấy giờ. Và cùng với phương pháp luận là sử dụng phương pháp trừu tượng hóa 1 cách thành thạo nhưng không triệt để. Do bị ảnh hưởng bởi thế giới quan tư sản và ông quan niệm những phạm trù kinh tế của tư bản là vĩnh viễn, đồng nhất với tư bản hiện vật. Ba là: cải tạo một cách phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu tiêu biểu là Xanh Ximông và S.Phurie, đưa CNXH không tưởng thành CNXH khoa học. Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội bằng cách mạng. Chủ nghĩa không tưởng đã có một quá trình phát triển gắn liền với những bước phát triển của chủ nghĩa tư bản và đã có một tác dụng tích cực nhất định. Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp đã đánh dấu một bước tiến trong lịch sử tư tưởng của loài người. Nó để lại cho chủ nghĩa Mác một di sản tư tưởng có giá trị, những điều tiên đoán quan trọng về đời sống xã hội và về sự phát triển của xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội không tưởng được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác thừa nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác, là tiền đề tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Những thành tựu của khoa học tự nhiên Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng không thể thiếu được cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp và những bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật. Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên thời đó, Ăngghen nêu bật ý nghĩa của ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đacuyn. Với những phát minh lớn của khoa học tự nhiên đã làm cho quan niệm mới về tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản. Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác đã ra đời như một tất yếu lịch sử. Không những vì nó là một sự phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân mà còn là sự phát triển hợp logic của lịch sử tư tưởng nhân loại. II. TÍNH SÁNG TẠO CỦA TRIẾT HỌC MÁC 1. So sánh triết học trước Mác và triết học Mác Quá trình hình thành và phát triển của triết học Mác gắn với từng giai đoạn phát triển của lịch sử và thể hiện trong nội dung của các tác phẩm triết học. Từ năm 1837 Mác bắt đầu nghiên cứu triết học Hêghen. Nét nổi bật mà C.Mác nhận thấy ở Hêghen là phương pháp nhận thức, phương pháp tư duy biểu hiện trong phương pháp biện chứng. Phương pháp biện chứng của Hêghen là phương pháp suy ngẫm về thế giới. Kết quả của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về thế giới chứ không phải là bức tranh thế giới thu được nhờ kết quả của khoa học cụ thể. Trong luận án tiến sỹ “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Epiquya”- năm 1841, C.Mác đề cao vai trò của phép biện chứng trong quá trình nhận thức và cải tạo xã hội, phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị, hướng đến hạnh phúc của con người. Vì vậy, dù vẫn còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm Hêghen nhưng ngay trong buổi đầu của sự nghiệp khoa học và hoạt động chính trị, C.Mác đã thể hiện khuynh hướng dân chủ cách mạng và bộc lộ ở những vấn đề cơ bản nhất sự đối lập với tư tưởng của Hêghen về vai trò, nhiệm vụ triết học trong cuộc đấu tranh xã hội. Sự chuyển biến về thế giới quan và lập trường chính trị của C.Mác được đánh dấu bằng quá trình hoạt động khoa học của ông ở báo Sông Ranh (1842-1843). Nội dung cơ bản của những bài báo C.Mác viết là bảo vệ lợi ích của những con người nghèo khổ, những người lao động, đấu tranh vì tự do và dân chủ. C.Mác đã phê phán sâu sắc các tệ nạn bóc lột, áp bức người lao động, về sự bần cùng của người nông dân. Chính trong thực tiễn đó C.Mác đã nhận thức đầy đủ hơn về những mặt hạn chế của triết học Hêghen, để từ đó C.Mác chuyển dần từ khuynh hướng duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Sau đó C.Mác đã viết cuốn sách “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, ông đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, tiếp nhận có chọn lọc quan điểm duy vật của triết học Phoiơbăc, đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm của ông. Có thể khẳng định rằng, đến thời kỳ này, C.Mác đã có bước chuyển hoàn toàn từ thế giới quan duy tâm biện chứng sang thế giới quan duy vật biện chứng, từ lập trường chính trị của chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là một quá trình phức tạp, vừa cải biến phép biện chứng duy tâm của Hêghen trở thành phép biện chứng duy vật, vừa vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc nhận thức lịch sử xã hội, C.Mác đã đặt nền móng vững chắc cho một cuộc cách mạng trong triết học, để từng bước hoàn chỉnh hệ thống triết học của mình cả về thế giới quan và phương pháp luận. Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể: Quan niệm truyền thống trong lịch sử triết học trước C.Mác coi “triết học là khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác ra đời đã chấm dứt quan điểm đó, đồng thời, xác định đúng đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, không những không tách rời, mà trái lại, triết học Mác càng có mối liên hệ thống nhất và độc lập với các khoa học chuyên ngành. Sự phát triển của các lĩnh vực khoa học khác nhau trong việc nghiên cứu thế giới tự nhiên và xã hội đặt cơ sở cho những khái quát mang tính phổ biến của triết học. Mặt khác, những kết luận của triết học trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển của các lĩnh vực khoa học. Thực tiễn khoa học đã chứng minh rằng, những thành tựu nghiên cứu của các khoa học về tự nhiên và xã hội là tiền đề cho hệ thống phạm trù, quy luật triết học ngày càng vận động, phát triển, đồng thời, ngược lại, hệ thống phạm trù, quy luật triết học định hướng cho sự phát triển hợp quy luật của các lĩnh vực khoa học khác nhau. Không có triết học duy vật biện chứng, khoa học hiện đại không thể tiến lên. Sự phát triển của khoa học hiện đại ngày nay càng chứng minh cho mối liên hệ thống nhất giữa khoa học với triết học Mác trên con đường nhận thức và cảỉ tạo thế giới. Sơ đồ so sánh triết học trước Mác và triết học Mác  2. Tính sáng tạo của triết học Mác Từ 1844 – 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cộng tác với nhau để thực hiện một nhiệm vụ có ý nghĩa lịch sử là đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng. Tính sáng tạo trong triết học Mác được thể hiện qua: 2.1 Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng Trong lịch sử triết học trước C.Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tách rời nhau. Các nhà triết học duy vật, dù đã thể hiện những tư tưởng biện chứng, nhưng suy đến cùng, do hạn chế bởi điều kiện lịch sử xã hội và khoa học cho nên họ vẫn bị sự chi phối bởi phương pháp tư duy siêu hình. Tư tưởng biện chứng đã đạt được những thành tựu lớn lao trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt trong triết học Hêghen, nhưng nó lại phát triển trong hệ thống triết học duy tâm thần bí. Triết học Mác ra đời đã chứng minh tính thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận: Thế giới quan duy vật biện chứng trong sự thống nhất hữu cơ với phương pháp biện chứng duy vật. Kế thừa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức, C.Mác đã xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng, hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học và phép biện chứng duy vật với tính cách là khoa học về sự phát triển của thế giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người và tư duy. CNDV và phép biện chứng trong triết học C.Mác là cơ sở để hình thành nên hệ thống triết học vĩ đại nhất trong lịch sử: Triết học Mác-Lenin. Đánh giá về tính chất triệt để trong triết học Mác, Lenin viết: “Triết học của Mác là một chủ nghĩa vật hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại”. 2.2 Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - Phát kiến vĩ đại của C.Mác Một đặc điểm có ý nghĩa to lớn của cuộc CM trong triết học là mở rộng CNDV sang lĩnh vực lịch sử xã hội loài người, hình thành nên CNDV lịch sử. Lenin đánh giá rằng: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển CNDV triết học Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. CNDV lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị…”. CNDV lịch sử của triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động của lịch sử xã hội loài người, sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên. Trong các quy luật của lịch sử xã hội, quy luật biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có vai trò quyết định. Các quan hệ về kinh tế quyết định các quan hệ về kiến trúc thượng tầng. Triết học lịch sử phát hiện ra vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người “đào huyệt chôn CNTB”, thực hiện CMXHCN, hướng đến mục tiêu giải phóng con người.Với bản chất duy vật triệt để trong lĩnh vực xã hội, triết học Mác trở thành công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra bước phát triển mới về chất một sự nhảy vọt so với các hệ thống triết học khác trong lịch sử. CNDV là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội hiện đại. Từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến những năm đầu kỷ XXI, thế giới đã có những biến đổi to lớn và đáng kinh ngạc sức sống dai dẳng của CNTB hiện đại với những thành tựu to lớn của nó, sự sụp đổ cua chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Sự ra đời của kinh tế tri thức đánh dấu bước chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ, sự kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa ở một số nước và thành công vượt bậc của sự nghiệp cải cách, đổi mới ở Trung Quốc và Việc Nam: vai trò ngày càng tăng với tốc độ liên tục cửa khoa học và công nghệ, cách cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, chủ nghĩa khủng bố, xung đột sắc tộc tôn giáo và chiến tranh khu vực... Tất cả những sự biến đổi đó không mâu thuẫn và xung đột với những nguyên lý và quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của nhận thức và cải tạo xã hội. Trong xã hội hiện đại, sản xuất vật chất vẫn là nền tảng của đời sống xã hội. Nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng vẫn là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống xã hội. Nguồn gốc và động lực phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, xét đến cùng vẫn là sự tác động biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Ngoài ra, trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp vẫn là một trong những động lực phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác được thực hiện thông qua các cuộc cách mạng xã hội (với những hình thức và phương pháp cách mạng phong phú và thích hợp). Nói một cách ngắn gọn, quan điểm của triết học Mác về hình thái kinh tế - xã hội, giai cấp và đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, Nhà nước, con người... vẫn là cơ sở khoa học cho việc xem xét và giải quyết những vấn đề căn bản của xã hội hiện đại. 2.3 Sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học, lý luận và thực tiễn Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn: Triết học Mác không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật của sự vận động và phát triển của thế giới, mà quan trọng hơn, đó là học thuyết nhằm mục đích cải tạo thế giới. Vì vậy, sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của triết học Mác. C.Mác viết: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbăc- là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan”. “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Đó là biểu hiện của tính hiện thực, tính t
Luận văn liên quan