Mỗi một xã hội để tồn tại và phát triển được đều có một hệ thống tổ chức xã
hội để đảm bảo trật tự, ổn định trong xã hội đó. Vậy tổ chức xã hội là gì và được tổ
chức như thế nào?
Theo nghĩa rộng: tổ chức xã hội chỉ bất kì tổ chức nào trong xã hội.
Theo nghĩa hẹp: Tổ chức xã hội chính là một tiểu hệ thống xã hội trong một
tổ chức xã hội nào đó.
Trong xã hội học: Tổ chức xã hội là một thành phần của các cấu trúc xã hội,
là một dạng hoạt động, là mức độ trật tự bên trong và sự thống nhất hài hoà của các
bộ phận của hệ thống xã hội.
Như vậy tổ chức xã hội là một hệ thống các quan hệ tập hợp liên kết cá nhân
với nhau nhằm thực hiện các tiêu chí nhất định
Có một cách hiểu khác về tổ chức xã hội:
Tổ chức xã hội là: Hình thức tập hợp rộng rãi nhân dân theo nghề nghiệp, lứa
tuổi, giới tính, sở thích. nhằm đáp ứng các yêu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân
dân như học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ các mặt, giúp đỡ, động viên nhau
trong cuộc sống, tham gia sinh hoạt văn hoá, thể thao, du lịch, xã hội, từ thiện,.
Các tổ chức xã hội có quy mô rất khác nhau: có tổ chức hình thành hệ thống
trong cả nước, ở tất cả các địa phương, hoặc tham gia tổ chức quốc tế tương ứng; có
tổ chức chỉ hoạt động ở địa phương hoặc ở cơ sở. Các tổ chức xã hội phát triển và
hoạt động có kết quả là sự phản ánh mức độ tiến bộ về dân trí và dân chủ trong xã
hội. Nhà nước có trách nhiệm quản lí, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội
ra đời và hoạt động đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân
39 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2606 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tổ chức xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
TỔ CHỨC XÃ HỘI
1
I.Khái niệm tổ chức xã hội
I.1.Khái niệm:
Mỗi một xã hội để tồn tại và phát triển được đều có một hệ thống tổ chức xã
hội để đảm bảo trật tự, ổn định trong xã hội đó. Vậy tổ chức xã hội là gì và được tổ
chức như thế nào?
Theo nghĩa rộng: tổ chức xã hội chỉ bất kì tổ chức nào trong xã hội.
Theo nghĩa hẹp: Tổ chức xã hội chính là một tiểu hệ thống xã hội trong một
tổ chức xã hội nào đó.
Trong xã hội học: Tổ chức xã hội là một thành phần của các cấu trúc xã hội,
là một dạng hoạt động, là mức độ trật tự bên trong và sự thống nhất hài hoà của các
bộ phận của hệ thống xã hội.
Như vậy tổ chức xã hội là một hệ thống các quan hệ tập hợp liên kết cá nhân
với nhau nhằm thực hiện các tiêu chí nhất định
Có một cách hiểu khác về tổ chức xã hội:
Tổ chức xã hội là: Hình thức tập hợp rộng rãi nhân dân theo nghề nghiệp, lứa
tuổi, giới tính, sở thích... nhằm đáp ứng các yêu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân
dân như học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ các mặt, giúp đỡ, động viên nhau
trong cuộc sống, tham gia sinh hoạt văn hoá, thể thao, du lịch, xã hội, từ thiện,....
Các tổ chức xã hội có quy mô rất khác nhau: có tổ chức hình thành hệ thống
trong cả nước, ở tất cả các địa phương, hoặc tham gia tổ chức quốc tế tương ứng; có
tổ chức chỉ hoạt động ở địa phương hoặc ở cơ sở. Các tổ chức xã hội phát triển và
hoạt động có kết quả là sự phản ánh mức độ tiến bộ về dân trí và dân chủ trong xã
hội. Nhà nước có trách nhiệm quản lí, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội
ra đời và hoạt động đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân.
jImZ3JvdXBpZD0ma2luZD0ma2V5d29yZD14JWMzWEzK2glZTElYmIlp&pag=1
.
I.1.Các đặc trưng của tổ chức xã hội:
2
Tổ chức xã hội có 5 đặc trưng:
- Đó là nhóm xã hội được lập ra có chủ đích và các thành viên của nhóm
đó ý thức đuợc rằng nhóm của họ tồn tại để đạt đựơc mục đích nhất định nào đó.
- Nhóm xã hội được xem là tổ chức xã hội phải có sự thể hiện cụ thể các
quan hệ quyền lực xã hội tức là phải có quan hệ lãnh đạo – phục tùng, có những cá
nhân có khả năng điều chỉnh hành vi thái độ của người khác thuộc nấc thang quyền
lực thấp hơn. Nói cách khác, trong các nhóm này có người nhiều quyền lực và
những người ít quyền lực hơn. Họ được phân bố trong mạng lưới các quan hệ theo
thứ bậc trên – dưới; cao – thấp.
- Cùng với các quan hệ quyền lực, tổ chức xã hội là một tập hợp các vị thế
vai trò. Mỗi một thành viên của tổ chức xã hội có vị thế xác định trong nhóm tức là
họ đã là thành viên của tổ chức thì bao giờ họ cũng có những trách nhiệm và quyền
hạn nhất định. Dù họ là những người đứng thấp nhất trong thang bậc quyền lực của
tổ chức để thực hiện tốt các trách nhiệm và quyền hạn (tức là vị thế) của từng thành
viên, tổ chức xã hội cũng đặt ra cho những cá nhân này một tập hợp những hành vi
đựơc phép làm và không đựơc phép làm.
- Vai trò của các thành viên trong tổ chức xã hội được thực hiện theo sự
mong đợi của tổ chức. Nhưng nếu mọi người tự phát thực hiện các vai trò này thì có
thể dẫn đến sự rối loạn hoạt động chính. Vì vậy, trong mỗi tổ chức luôn có những
quy tắc điều chỉnh mối quan hệ giưã các vai trò. Những quy tắc này sẽ phối hợp
thực hiện vai trò của các thành viên khiến cho tổ chức hoạt động được nhịp nhàng,
ổn định.
- Một loạt dấu hiệu nữa của tổ chức xã hội là phần lớn các mục đích và
mối quan hệ của tổ chức xã hội đựơc công khai hoá. Tức là, không chỉ có một số
người lãnh đạo tổ chức mà các thành viên của nó thậm chí đôi khi cả những người
bên ngoài đều có thể biết đến mục đích của phần nhiều các hoạt động của tổ chức.
Các tương tác giữa các thành viên của tổ chức và tương tác giữa các thành viên của
tổ chức với bên ngoài phần nhiều dựa trên những vị thế và vai trò của họ đã đựơc
thừa nhận một cách chính thức. Hơn thế, sự tương tác này thông thường đựơc thực
hiện một cách công khai tức là các thành viên của tổ chức có thể đựơc biết ở những
mức độ khác nhau về nội dung đó.
Riêng trong tổ chức xã hội hiện đại và bộ máy quan liêu thì đặc trưng của nó
là: (theo Macwerber).
+ Sự phân công lao động được xác định theo quy định, theo luật. Chẳng hạn
những chức vụ vị trí như: hiệu trưởng, hiệu phó, trưởng khoa…trong một trường đại
học thì được xác định theo những quy định của bộ và nhà nước.
+ Một hệ thống ban hành mệnh lệnh theo thứ bậc từ trên xuống dưới với
nhiều cấp bậc khác nhau.
+ Một hệ thống văn phòng, hành chính công khai, được bổ sung bằng những
tập tài liệu viết
3
+ Những quy trình đào tạo chính thức cho những công việc trong tổ chức sẽ
giúp các cá nhân làm việc hiệu quả hơn, đơn giản hơn so với việc tự mày mò học
hỏi qua kinh nghiệm bản thân,
+ Trong tổ chức, những người lao động cống hiến toàn bộ sự quan tâm và sức
lực của mình cho hoạt động của tổ chức và coi đó là sự nghiệp, một ngành nghề.
+ Những quy định của tổ chức hoặc chính thức ít nhiều ổn định có thể học
được và tuân theo một cách dễ dàng. Những quy định này giúp điều chỉnh và định
hướng công việc của mỗi thành viên.
II.Các tính chất của tổ chức xã hội
II.1. Phân công lao động xã hội ( PCLĐXH).
II.1.1.Khái niệm
Phân công lao động xã hội là sự tách biệt các lao động khác nhau trong xã
hội. Phân công lao động XH gắn liền với chuyên môn hóa trong sản xuất - kinh
doanh nên nó mang ý nghĩa tích cực, tiến bộ và là biểu hiện trình độ phát triển kinh
tế - xã hội.(theo từ điển bách khoa toàn thư)
II.1.2.Phân loại
Phân công lao động bao gồm:
- Phân công lao động chung: là phân chia nền kinh tế thành các loại sản
xuất khác nhau như: nông nghiệp, công nghiệp...
- Phân công lao động riêng ( phân công lao động đặc thù) là phân chia sản
xuất thành những ngành và phân ngành. Ví dụ: trong công nghiệp có công nghiệp
khai thác, công nghiệp chế biến, trong nông nghiệp có ngành trồng trọt, ngành chăn
nuôi...
- Phân công lao động cá biệt: là phân công lao động trong nội bộ doanh
nghiệp. Đó là sự tách riêng các hoạt động lao động trong phạm vi một tập thể lao
động nhất định ( phân xưởng, công đoạn sản xuất...).
II.1.3. Một số hình thức phân công lao động phổ biến.
a. Phân công lao động theo giới tính.
Đây là một hình thái phân công lao động tự nhiên, tồn tại ở giai đoạn đầu
của XH nguyên thuỷ, các loại hình lao động được phân theo giới tính nam - nữ. Đàn
ông lo việc săn bắt, đàn bà hái lượm và trong thời kì này người phụ nữ đóng vai trò
4
là lao động chính trong gia đình. Cách phân công LĐ này được duy trì trong những
thời kì lịch sử muộn hơn nhưng phạm vi ngày càng thu hẹp hơn. Khi nông nghiệp
dùng cày xuất hiện, các công việc sản xuất chính nằm trong tay đàn ông, đàn bà chủ
yếu chăm lo việc gia đình và vai trò lao động của người đàn ông trong gia đình ngày
càng quan trọng hơn.
b. Phân công lao động theo lứa tuổi.
Đây là hình thức phân công lao động dựa trên tuổi của người lao động để
bố trí công việc phù hợp nhằm sử dụng có hiệu quả nhất khả năng lao động của
người lao động.
c. Phân công lao động theo lãnh thổ.
Dựa vào các điều kiện về tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng địa lý để
xây dựng các vùng chuyên môn hoá sản xuất với một hay một số sản phẩm nhằm
cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước. Phân công LĐ theo lãnh thổ
nhằm nâng cao năng suất lao động XH do đã sử dụng hợp lý thế mạnh của từng
vùng, tổ chức hợp lý mối liên hệ lãnh thổ sản xuất và tiêu thụ trên một mạng lưới
giao thông vận tải tốt. Phân công lao động theo lãnh thổ là nhân tố tạo ra vùng kinh
tế quan trọng nhất.
d. Phân công lao động theo cơ cấu ngành kinh té.
Đó là sự phân công lao động theo các ngành nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ. Sự phân công lao động theo cơ cấu ngành hợp lý, tăng tỉ lệ lao động trong
công nghiệp, dịch vụ, giảm tỉ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ thể hiện một nền
kinh tế phát triển.
Ngoài các hình thức phân công lao động trên chúng ta còn có thể phân
công LĐ dựa trên trình độ chuyên môn và kinh nghiệm. Theo đó sẽ phân công việc
theo khả năng và trình độ của người lao động một cách thích hợp nhất.
II.1.4. Những xã hội điển hình với sự phân công lao động tương ứng.
a. Xã hội nguyên thuỷ ( XH săn bắt và hái lượm).
Là một XH sử dụng công cụ đơn giản để săn thú và hái lượm. Ở giai đoạn
phát triển của văn hoá XH đầu tiên này nam giới đảm nhiệm việc săn bắt, phụ nữ hái
lượm. Người tạo ra lương thực chính là người phụ nữ. Đây chính là lý do dẫn tới
việc người phụ nữ giữ vai trò chủ đạo trong gia đình. Như vậy, ngay từ thủa nguyên
sơ của lịch sử đã có sự phân công LĐXH một cách sơ đẳng.
b. Xã hội nông nghiệp.
Khi nông nghiệp xuất hiện thì nam giới dần chuyển sang vị trí chủ đạo
trong sản xuất lương thực. Nhiều khi nam giới đảm nhiệm cả hai công việc chính
liên quan đến nông nghiệp: đi cày và chăn nuôi. Từ đó dẫn tới người phụ nữ đảm
nhận những công việc phụ còn lại và điều đó góp phần làm giảm địa vị của người
phụ nữ trong gia đình.
c. Xã hội công nghiệp.
5
Là XH sản xuất bằng công nghệ sản xuất cao, trang thiết bị hiên đại. Quá
trình phát triển công nghiệp làm cho chuyên môn hoá ngày càng tăng cao. Trong
XH vị trí nam và nữ dần được bình quyền, người lao động tham gia vào mọi lĩnh
vực sản xuất.
II.1.5. Ý nghĩa, vai trò của phân công lao động.
Phân công lao động hợp lý có tác dụng to lớn trong việc nâng cao hiệu
quả của sản xuất, tăng năng suất lao động. Do phân công lao động mà có thể chuyên
môn hoá người lao động, chuyên môn hoá được công cụ lao động, cho phép tạo ra
những công cụ chuyên dùng có năng suất lao động cao hơn. Người công nhân có thể
làm một một loạt công việc, không mất thời gian vào việc điều chỉnh lại thiết bị,
thay dụng cụ để làm những công việc khác nhau.
Mác đã viết: "Kết quả của việc phân công các ngành sản xuất XH là sản
xuất hàng hoá được tốt hơn, các thiên hướng khác nhau và tài năng con người lựa
chọn được lĩnh vực hoạt động thích ứng. Không có giới hạn về phạm vi hoạt động
thì không thể hoàn thành được một cái gì đáng kể trong bất kì lĩnh vực nào. Do đó,
ngay cả sản xuất và người sản xuất sản phẩm cũng nhờ phân công lao động mà hoàn
thiện hơn ".( " Mác và Anghen tuyển tập, tập 23, trang 378)
II.2.Quyền lực
Quyền lực là 1 dạng quan hệ XH,biểu hiện ở khả năng 1 cá nhân hoặc
nhóm điều khiển hành vi, thái độ, quan điểm của các cá nhân,các nhóm khác. Chủ
thể và khách thể thực hiện quyền lực XH có thể là 1 cá nhân, 1 nhóm XH hay 1
cộng đồng, 1 XH; thực chất quyền lực chính là việc giời hạn đồng thời mở rộng mức
độ tự do của các chủ thể và khách thể thực hiện quyền lực.
- Tức là, nếu như chúng ta tham gia vào quan hệ quyền lực, 1 mặt chúng
ta lạp tức sẽ bị hạn chế mức độ tự do hành động so với mức tự do hành động trước
đó, mÆt khác đồng thời chúng ta cũng sẽ dược mở rộng thêm những mức tự do mới
mà trước đó chúng ta chưa hề có.VD:1 người lao động tự do chỉ phải tuân theo
những quy định của pháp luật nhưng khi anh ta tham gia vào làm việc tại 1 cơ quan
nào đó thì anh ta một mặt không được tự do như khi làm việc tự do mà phải tuân
theo những quy định của cơ quan về giờ làm việc,về tốc độ,về chất lượng…nhưng
mặt khác anh ta cũng có thể được tham gia vào những điều mà trước đó anh không
được phép làm:được nghỉ ngày cuối tuần mà vẫn có lương. Tất nhiên những cái bị
giới hạn và những cái được mở rộng không phải như nhau. Do đó, việc so sánh giữa
cái “được” và cái “mất” khi tham gia vào các quan hệ quyền lực sẽ giúp cho các
quyết định có tham gia vào nó hay không.
6
- Thông thường, mức tự do hành động của chủ thể quyền lực rộng hơn
khách thể quyền lực.Trong định nghĩa của Weber về quyền lực,ông đã nhấn mạnh
đến bộ mặt thứ nhất của nó:”Quyền lực là khả năng của cá nhân hay nhóm người
thực hiện được ý chí của họ,bất chấp sự chống đối của người khác”.Chính vì vậy,
nhìn từ góc độ chủ thể đến khách thể quỳền lực thì quyền lực là sự lãnh đạo,phục
tùng. Nói cách khác, cái “được” của chủ thể quyền lực nhiều hơn cái “mất”. Chính
vì lẽ đó, việc trở thành 1 chủ thể quyền lực là 1 ham muốn phổ biến trong XH. Hơn
thế nữa, quyền lực trở thành 1 giá trị XH.
- Xem xét quyền lực phải đặt trong bối cảnh toàn XH nói chung chứ
không phải trong quan hệ giữa 2 bên các nhân, nhóm. Chúng ta có thể hiểu quyền
lực là khả năng áp đặt ý chí của mình lên người khác, tác động lên khả năng động
viên các nguồn lực để đạt được 1 mục đích của mình.
- Theo Dahrendorf , sự phân chia quyền lực là một nhân tố quyết định,
trọng đối với cấu trúc xã hội và quyền lực là nguồn gốc của mâu thuẫn. Mâu thuẫn
tất yếu nảy sinh từ cuộc đấu tranh vì quyền lực giữa các nhóm có lợi ích đối lập
nhau. Có thể đó cùng là mâu thuẫn giữa một bên là những người cố bảo vệ và duy
trì quyền lực và một bên cố kháng cự và tìm cách giành lấy quyền lực.
* Điều kiện cơ bản của quyền lực:
Weber chỉ ra 2 điều kiện cơ bản của quyền lực:
- Thứ nhất:cả 2 bên gồm người có quyền lực và người bị quyền lực chi
phối đều phải tham gia vào hành động xã hội.
- Thứ hai:người có quyền lực phải là người nắm giữ vị trí nhất định
trong cộng đồng xh.
a.Nguồn gốc của quyền lực:
+ Max Weber cho rằng quyên lực có nguồn gốc là kinh tế và các yếu tố
phi kinh tế như: gia đình, học vấn, tôn giáo, uy quyền...Trong các dạng quyền lực
XH, quyền lực quan trọng nhất là quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị thường
được các cơ quan của chính phủ thực hiện.
+ Parsons cho rằng nguồn gốc của quyền lực nằm ở các vị thế của 1 cấu
trúc XH. Cấu trúc này hoạt động hài hoà, ổn định. Nó qui định cho mỗi vị thế XH 1
quyền hạn tương ứng. Tức là khi chúng ta thực hiện các vai trò được XH trao cho
thì chúng ta cũng thực hiện quyền lực mà chúng ta được uỷ nhiệm. Như vậy, XH đã
tạo cho các vai trò này 1 sự hợp pháp, hay 1 sự chính đáng, nói cách khác đó chính
7
là quyền lực. Quyền lực của các vai trò XH không giống nhau những chúng phối
hợp với nhau để tạo ra 1 cơ cấu thống nhất và hài hoà.
+ Theo quan điểm Macxit thì nguồn gốc quyền lực chính là sự sở hữu
hay không sở hữu tư liệu sản xuất. Chế độ sở hữu tư nhân là nguồn gốc tạo ra sự
phân chia quyền lực trong XH mà ở đó người chiếm hữu tư liệu sản xuất là người có
quyền lực điều chỉnh hành vi và cơ hội của người không sở hữu tư liệu sản xuất.
Như vậy,chỉ khi nào chúng ta xoá bỏ chế độ tư hữu thì mới xoá bỏ được nguồn gốc
tạo ra sự bất bình đẳng và không còn người thống trị và bóc lột người khác.
b.Các hình thức quyền lực XH:
- Cưỡng bức(Force): 1dạng quyền lực có sử dụng sự ép buộc về thể xác
để áp đặt ý chí của người này cho người khác. Tuy nhiên hình thức này cũng khá
phổ biến trong mọi XH.
- Uy quyền(Authority): là dạng quyền lực có sự đồng tình của công
chúng, là “khả năng mà 1 mệnh lệnh và nội dung đặc thù nhất định sẽ được chấp
hành bởi 1 nhóm người nhất định”(Max Weber). Những mệnh lệnh thường được
đưa ra trong các tổ chức. Chúng được hợp thức hoá theo thứ bậc. Thứ bậc này cho
phép người ra lệnh các quyền kiểm soát hành vi của người dưới quyền. Như vậy,
dạng quyền lực uy quyền này được hợp pháp hoá. Khi 1 người lãnh đạo thiếu sự
đồng tình thì hoặc người đó thực thi quyền lực của mình bằng dạng cưỡng bức hoặc
là nhường quyền lực cho người khác.
- Theo Weber có 3 loại uy quyền:
Uy quyền lôi cuốn: dựa trên sự tôn sùng và sẵn sàng hiến dâng của các
thành viên đối với thủ lĩnh của mình.
VD:Chúa Giêsu và các môn đồ của người
Uy quyền truyền thống: dựa trên truyền thống và thói quen.
VD:Uy quyền của của người giáo viên đối với học sinh của mình,hoặc uy
quyền của người chồng với người vợ của mình
Uy quyền hợp pháp, hợp lí: dựa trên niềm tin về tính đúng đắn và sự cần
thiết của những luật lệ,qui định chính thức:trong các tổ chức như:ở công ty
8
* Mills cho rằng:khi nói tới quyền lực,ta cần phải phân biệt rõ 3 hình
thái của quyền lực:(1):quyền lực cưỡng chế(Coercion)-khả năng bắt người khác phải
tuân theo,phải làm theo ý chí,nguyện vọng của mình;(2):quyền lực thống
trị(Authority)-quyền lực được những người dưới quyền tự nguyện tin là chính
đáng,là đúng đắn;(3):quyền lực thao túng(Manipulation)-quyền lực được thực thi mà
người không cóquyền lực không hề biết.
* Một số dạng quyền lực khác có thể là:
- Quyền lực tuyệt đối là dạng quyền lực không chấp nhận bất cứ sự khác
biệt và sự chống đối nào. Quyền lực tuyệt đối tham gia vào tất cả các mặt của đời
sống XH. Đối lập với quyền lực tuyệt đối là quyền lực giới hạn.
- Quyền lực quân chủ: là mọi quyền hành đều tập trung ở trong tay 1
người như vua của 1 nước hoặc độc tài.
- Quyền lực thiểu số là quyền lực do nhóm thiểu số trong XH thực hiện đối với
nhóm đa số. Quyền lực thiểu số thường là quyền lực của nhóm người giàu vì vậy nó
mang tính tài phiệt.
- Quyền lực dân chủ : đó là quyền của nhân dân và đa số nhân dân tham gia
vào quyền lực này.Thông thường qua hình thức bỏ phiếu xác định nhân vật quan trọng
hoặc họ điều chỉnh trực tiếp. Quyền lực dân chủ có hai loại hình : trực tiếp và gián tiếp.
Quan niệm của Weber về quyền lực
Theo từ điển XHH thì quyền lực chỉ một khoảng không gian hành động
mà một bộ phận xã hội chiếm giữ,cho phép gây ảnh hưởng lên một người khác bên
dưới mà người đó không thể lẩn tránh được.Nói chung quyền lực thường biểu đạt
một khái niệm bậc trên để nhận thức ưu thế có được về mặt xã hội.
Weber đã đưa ra định nghĩa nổi tiếng về quyền lực trong đó nhấn mạnh
bộ mặt thứ nhất của nó .Quyền lực là khả năng của cá nhân hay nhóm người thực
hiện được ý chí của họ bất chấp sự chống đối của người khác .
Nhìn chung chúng ta hiểu quyền lực là cơ hội mà một người hay nhóm người
thực hiện ý chí của họ trong một hành động cộng đồng thậm chí chống lại sự kháng
cự của những người khác đang tham gia trong hành động đó .
Trong khái niệm này Weber đã chỉ ra 2 điều kiện cơ bản của quyền lực. Đó là:
- Thứ nhất:cả 2 bên gồm người có quyền lực và người bị quyền lực chi phối
đều phải tham gia vào hành động XH
Với Weber, hành động xã hội là hành động hướng đến những người khác có ý
nghĩa và hướng đến cái mà chú thể gán cho một ý nghĩa chủ quan. ông cho rằng giải
9
thích xã hội học dối với hành động phải bắt đầu bằng việc quan sát và lý giải trạng
thái tinh thần chủ quan. Theo quan niệm của Weber, một hành động xã hội là một
hành động của một cá nhân mà có gắn một ý nghĩa vào hành động ấy, và cá nhân đó
tính đến hành vi của người khác, bằng cách như vậy mà định hướng vào chuỗi hành
động đó. Một hành động mà một cá nhân không nghĩ về nó thì không thể là một
hành động xã hội. Mọi hành động không tính đến sự tồn tại và những phản ứng có
thể có từ những người khác thì không phải là hành động xã hội. Hành động không
phải là kết quả của quá trình suy nghĩ có ý thức thì không phải là hành động xã hội.
Weber cho rằng xã hội học cố gắng diễn giải hành động nhờ phương pháp
luận về kiểu loại lý tưởng. Ông thực hành phương pháp này để xây dựng một phân
loại học về hành động xã hội gồm bốn kiểu: kiểu hành động truyền thống được thực
hiện bởi vì nó vẫn được làm như thế từ xưa đến nay, kiểu hành động cảm tính bị dẫn
dắt bởi cảm xúc, kiểu hành động duy lý - giá trị hướng tới các giá trị tối hậu, kiểu
hành động duy lý - mục đích hay còn gọi là kiểu hành động mang tính công cụ.
- Thứ hai : người có quyền lực phải là người nắm giữ vị trí nhất định trong
cộng đồng XH
Sự thống trị theo Mac weber là khả năng mà một mệnh lệnh với nội dung đã
cho sẽ được một nhóm người nhất định tuân theo.
Quyền lực là khả năng mà một người trong quan hệ XH có vị thế thực hiện ý
chí của mình bất chấp sự kháng cự của người khác
Quyền lực có nghĩa là mỗi cơ hội thực hiện ý định bản thân kể cả có sự chống
đối trong phạm vi một mối quan hệ - XH dù cơ hội đó dựa trên cơ sở nào
Ở đây thống trị được xem là biểu hiện bên ngoài được thể chế hóa hợp pháp
của quyề