Trước những năm 90 trên thếgiới, hầu hết các nước đều chọn khối lượng tiền
(M2, M3 ) hoặc tỉgiá làm mục tiêu trung gian trong điều hành chính sách tiền tệ
(CSTT) quốc gia. Tuy nhiên, vào đầu những năm 90, một số nước phát triển đã có
sự thay đổi trong việc lựa chọn các mục tiêu trung gian tương tự, mà tập trung vào
chỉsốlạm phát. Cách tiếp cận mới này tập trung vào nhiệm vụkiểm soát lạm phát
và được gọi là lạm phát mục tiêu (Inflation Targeting). Chính sách lạm phát mục
tiêu là chính sách mà ngân hàng trung ương (NHTW) sẽ đưa ra mục tiêu lạm phát
trong một thời gian khá dài (thường là 5 năm) và được quyền chủ động sửdụng các
công cụchính sách tiền tệ như nghiệp vụthị trường mở, lãi suất cơ bản, tỷgiá .v.v
để đạt mục tiêu đó. Một chính sách lạm phát mục tiêu được coi là thành công nếu
rong quá trình thực hiện lạm phát sẽvận động xoay quanh mức mục tiêu đã đềra.
Chính sách lạm phát mục tiêu được áp dụng nhiều bởi các nước phát triển và
các nước mới nổi khi lãnh đạo các nước nhận định rằng, lạm phát hay nói cách khác
ổn định giá là mục tiêu chính của chính sách tiền tệ. Tùy từng thời kỳ, mức lạm phát
mục tiêu có thểcó những điều chỉnh theo năm, tuy nhiên mức điều chỉnh không quá
lớn so với định hướng dài hạn đã xác định từthời gian trước. Từ đầu những năm 90
thế kỷ 20, một số quốc gia đã tiên phong áp dụng nó là NHTW New Zealand
(1990); NHTW Canada (1991); Vuong quốc Anh (1992); Phần Lan, Thụy Ðiển, Úc
(1993) Ngày nay, có khoảng 30 quốc gia đang áp dụng phương pháp tiếp cận mới
này và gần một nửa trong số đó là các quốc gia thuộc nhóm thịtruờng mới nổi hoặc
quốc gia có thu nhập thấp. Ngoài ra, một sốNHTW của các nền kinh tếphát triển
hơn - bao gồm ECB, FED, Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) và Ngân hàng Quốc gia
Thụy Sỹ-đã vận dụng nhiều nội dung trong chính sách mục tiêu lạm phát, và một
sốkhác thì đang trong quá trình chuyển đổi sang chính sách mục tiêu lạm phát. Việt
Nam cũng đang bắt đầu nghiên cứu và định hướng chuyển đổi sang chính sách tiền
tệ này đểthực hiện mục tiêu kiềm chếlạm phát trong bối cảnh nền kinh tếhiện nay.
Vậy việc theo đuổi một chính sách mục tiêu lạm phát trong trung và dài hạn
hạn cùng với việc sửdụng những công cụchính sách tiền tệ tác đông vào nền kinh
tế đểkiềm chếlạm phát theo mục tiêu đã đặt ra trước này có ảnh hưởng thế nào đến
tăng trưởng kinh tếcủa quốc gia và cụthểtrong bối cảnh nền kinh tếcủa nước ta?
Bài tiểu luận của Nhóm 10 sẽtìm hiểu vềmối quan hệcủa giữa lạm phát mục tiêu
và tăng trưởng kinh tế, đồng thời đánh giá khả năng áp dụng chính sách lạm phát
mục tiêu ởViệt Nam.
34 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1890 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
----------------------------------
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài 9:
TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
LỚP KI001 – VB2K15
NHÓM 10
TP. HCM, tháng 10-2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
----------------------------------
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài 9:
TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
GVHD: Thầy TRƯƠNG MINH TUẤN
Danh sách nhóm 10
STT TÊN THÀNH VIÊN CHỮ KÝ
Nguyễn Thị Thanh
Nga
50 Trương Ái Ngân
79 Trương Thùy Trinh
76
Đoàn Thị Minh
Trâm
68 Nguyễn Hoài Thu
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU..................................................................1
1. Lạm phát mục tiêu là gì..............................................................................................1
2. Đặc tính chung của cơ chế lạm phát mục tiêu ..............................................................5
3. Các ưu điểm và hạn chế của cơ chế Lạm phát mục tiêu ................................................7
3.1. Các ưu điểm ....................................................................................................7
3.2. Những hạn chế.................................................................................................8
II. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ................................................................................................................9
CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ
I. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ NƯỚC NGOÀI...............................................................................................................11
II. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ TẠI VIỆT NAM .............................................................................................................16
CHƯƠNG III: LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CƠ CHẾ LẠM
PHÁT MỤC TIÊU TẠI VIỆT NAM
I. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM..........................................................................................................19
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG Ở VIỆT NAM ................20
III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CƠ CHẾ LẠM PHÁT MỤC TIÊU Ỡ VIỆT NAM.................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
1. Biểu đồ : Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) cuối kỳ giai đoạn 2001 – 2011 .......................................19
2. Bảng : Lạm phát CPI và tốc độ tăng GDP ở Việt Nam từ 1987 đến 2010 ........................................21
LỜI NÓI ĐẦU
Trước những năm 90 trên thế giới, hầu hết các nước đều chọn khối lượng tiền
(M2, M3…) hoặc tỉ giá làm mục tiêu trung gian trong điều hành chính sách tiền tệ
(CSTT) quốc gia. Tuy nhiên, vào đầu những năm 90, một số nước phát triển đã có
sự thay đổi trong việc lựa chọn các mục tiêu trung gian tương tự, mà tập trung vào
chỉ số lạm phát. Cách tiếp cận mới này tập trung vào nhiệm vụ kiểm soát lạm phát
và được gọi là lạm phát mục tiêu (Inflation Targeting). Chính sách lạm phát mục
tiêu là chính sách mà ngân hàng trung ương (NHTW) sẽ đưa ra mục tiêu lạm phát
trong một thời gian khá dài (thường là 5 năm) và được quyền chủ động sử dụng các
công cụ chính sách tiền tệ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất cơ bản, tỷ giá .v.v
để đạt mục tiêu đó. Một chính sách lạm phát mục tiêu được coi là thành công nếu
rong quá trình thực hiện lạm phát sẽ vận động xoay quanh mức mục tiêu đã đề ra.
Chính sách lạm phát mục tiêu được áp dụng nhiều bởi các nước phát triển và
các nước mới nổi khi lãnh đạo các nước nhận định rằng, lạm phát hay nói cách khác
ổn định giá là mục tiêu chính của chính sách tiền tệ. Tùy từng thời kỳ, mức lạm phát
mục tiêu có thể có những điều chỉnh theo năm, tuy nhiên mức điều chỉnh không quá
lớn so với định hướng dài hạn đã xác định từ thời gian trước. Từ đầu những năm 90
thế kỷ 20, một số quốc gia đã tiên phong áp dụng nó là NHTW New Zealand
(1990); NHTW Canada (1991); Vuong quốc Anh (1992); Phần Lan, Thụy Ðiển, Úc
(1993)… Ngày nay, có khoảng 30 quốc gia đang áp dụng phương pháp tiếp cận mới
này và gần một nửa trong số đó là các quốc gia thuộc nhóm thị truờng mới nổi hoặc
quốc gia có thu nhập thấp. Ngoài ra, một số NHTW của các nền kinh tế phát triển
hơn - bao gồm ECB, FED, Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) và Ngân hàng Quốc gia
Thụy Sỹ - đã vận dụng nhiều nội dung trong chính sách mục tiêu lạm phát, và một
số khác thì đang trong quá trình chuyển đổi sang chính sách mục tiêu lạm phát. Việt
Nam cũng đang bắt đầu nghiên cứu và định hướng chuyển đổi sang chính sách tiền
tệ này để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay.
Vậy việc theo đuổi một chính sách mục tiêu lạm phát trong trung và dài hạn
hạn cùng với việc sử dụng những công cụ chính sách tiền tệ tác đông vào nền kinh
tế để kiềm chế lạm phát theo mục tiêu đã đặt ra trước này có ảnh hưởng thế nào đến
tăng trưởng kinh tế của quốc gia và cụ thể trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta?
Bài tiểu luận của Nhóm 10 sẽ tìm hiểu về mối quan hệ của giữa lạm phát mục tiêu
và tăng trưởng kinh tế, đồng thời đánh giá khả năng áp dụng chính sách lạm phát
mục tiêu ở Việt Nam.
Đề tài 9 Nhóm 10
1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. NHỮNG CƠ SỞ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU
1. Lạm phát mục tiêu là gì?
Lạm phát mục tiêu (inflation targeting) là một cơ chế chính sách tiền tệ
(CSTT) được áp dụng từ cuối những năm 1980 và đã tỏ ra khá thành công, kể cả
những quốc gia thị trường mới nổi như Chilê. Tại các quốc gia đang phát triển và
tăng trưởng kinh tế nhanh yêu cầu ổn định giá cả trong nền kinh tế là một điều cấp
thết bởi hiệu ứng tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế - sự méo mó của giá cả,
phân bố không hiệu quả các nguồn lực khan hiếm và mất công bằng xã hội. Tác
động tiêu cực của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế đã được đề cập trong nhiều
công trình nghiên cứu, chẳng hạn, Barro (1995); Bruno và Easterly (1995); Ghosh
và Phillips (1998)… Các nghiên cứu chỉ ra hậu quả của lạm phát là làm méo mó sự
phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế, làm tổn thương các thành viên nghèo nhất
trong xã hội, gây bất ổn và tái phân phối thu nhập và tài sản một cách tùy tiện.
Lạm phát hủy hoại sự ổn định kinh tế và gây thất bại trong phát triển bền
vững. Sự lựa chọn cơ chế lạm phát mục tiêu như một công cụ quản lí kinh tế vĩ mô
ngày càng chứng tỏ sức sống của mình kể từ khi New Zealand, Canada thực hiện
thành công vào đầu những năm 90. Đến nay đã có gần 30 quốc gia và tới đây còn
nhiều quốc gia khác áp dụng cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu
và đã thu được những kết quả đáng kể. Theo Loayza và Soto (2002), ngoại trừ hai
trường hợp đã tham gia Liên minh Tiền tệ châu Âu (Phần Lan và Tây Ban Nha),
không có quốc gia nào từ bỏ cơ chế này, xu hướng các quốc gia nghiêng sử dụng
công cụ chính sách này đề điều tiết nền kinh tế ngày càng nhiều nhưng có thể nói
rằng cơ chế này hiện vẫn còn hết sức mới mẻ và nhiều bàn cãi xung quanh. Vậy lạm
phát mục tiêu (LPMT) chính xác là gì?
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng: ”Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu là
một bản thông báo ra công chúng về chỉ tiêu trung hạn của lạm phát cũng như uy tín
của cơ quan thẩm quyền về tiền tệ để đạt mục tiêu này. Các yếu tố khác bao gồm
phổ biến thông tin về các kế hoạch và mục tiêu của nhà hoạch định chính sách tiền
tệ tới công chúng và thị trường, cũng như trách nhiệm giải trình của Ngân hàng
Trung ương (NHTW) để đạt được các chỉ tiêu lạm phát của mình. Các quyết định
Đề tài 9 Nhóm 10
2
về chính sách tiền tệ sẽ dựa trên độ lệch dự báo lạm phát (một cách hoàn toàn hay
rõ ràng) đóng vai trò là chỉ tiêu trung gian của chính sách tiền tệ”.
Theo các nhà kinh tế học Thomas Laubach, Rick Mickin và Adam Poxen
định nghĩa về LPMT như sau “LPMT là nền tảng cơ sở cho CSTT, được đặc trưng
bởi việc NHTW công bố với công chúng một mục tiêu định lượng chính thức
(thường là một khung phạm vi hơn là một giá trị cụ thể) cho tỷ lệ lạm phát trong
một hoặc vài thời kỳ, dựa trên quan điểm ổn định giá cả là mục tiêu duy nhất của
CSTT trong dài hạn. Một trong những đặc trưng về quan điểm có tác động mạnh là
công khai với công chúng về những kế hoạch và mục tiêu của các nhà hoạch định
chính sách và trong nhiều truờng hợp, là cả về cơ chế truyền dẫn, trong đó nhấn
mạnh đến trách nhiệm của NHTW trong việc theo đuổi mục tiêu”
Việc công bố các mục tiêu lạm phát là một nhiệm vụ bắt buộc. Tùy thuộc vào
NHTW mà mục tiêu này có thể là một con số hoặc là một khoảng. Ở các nền kinh tế
phát triển, mục tiêu này khoảng 2%, trong khi ở các nền kinh tế đang phát triển, con
số này lớn hơn khoảng vài phần trăm. Chẳng hạn, ở các nền kinh tế phát triển, mục
tiêu lạm phát mà NHTW New Zealand theo đuổi là từ 1% đến 3%, của NHTW
Thụy Điển và Canada là 2% với 1% biên độ dao động được cho phép về hai phía,
của NHTW Nauy là 2.5%, của Anh là 2%; ở Đông Nam Á, mục tiêu lạm phát cho
năm 2010 của Thái Lan là 0.5% đến 3%, Philippines là 4.5% với biên độ dao động
±1%, và Indonesia là 5% với biên độ dao động ±1%. Tuy nhiên, sự khác biệt này
không làm thay đổi cách các NHTW tiếp cận với mục tiêu lạm phát của mình.
Nếu các NHTW chọn mục tiêu lạm phát là một khoảng, thường họ sẽ nhắm
vào điểm giữa của khoảng; trong khi, nếu chọn mục tiêu lạm phát là một điểm, họ
sẽ nhắm vào chính điểm mục tiêu lạm phát đó.Ðiểm quan trọng ở đây là cơ chế
LPMT không chỉ giới hạn ở việc công bố mục tiêu lạm phát bằng một con số cụ thể.
Vấn đề này có ý nghĩa quyết định đặc biệt đối với các các nước đang phát triển, bởi
vì các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia này đôi khi cũng báo cáo các
mục tiêu lạm phát, nhưng không có nghĩa các nước này thực hiện cơ chế LPMT. Cơ
chế LPMT cũng đòi hỏi các đặc điểm nêu trên, phải đặt nặng vai trò khả năng dự
báo lạm phát và tối thiểu phải dựa trên ba điểm chính. i) Một mục tiêu lạm phát rõ
ràng mà NHTW theo đuổi trong một khoảng thời gian nhất định. ii) Một chiến lược
thực hiện mục tiêu lạm phát dựa trên các dự báo sao cho lạm phát nằm trong mục
Đề tài 9 Nhóm 10
3
tiêu đã định hướng. iii) Một mức độ minh bạch (transparency) và trách nhiệm giải
trình (accountability) cao.
Chiến lược thực hiện mục tiêu lạm phát dựa trên các dự báo (inflation-
forecast targeting) là một qui trình khá phức tạp. Tuy nhiên, về mặt cơ bản, qui trình
này gồm một số bước như sau. Mỗi NHTW đầu tiên sẽ xây dựng cho riêng mình
một dự báo về lạm phát dựa trên các thông tin đạt được, gọi là mức-dự-báo-lạm-
phát-có-điều-kiện, và dùng nó như một biến tham khảo trung gian. Một công cụ
chính sách sau đó sẽ được chọn để tác động vào mức dự-báo-lạm-phát-có-điều-kiện
này sao cho mức dự báo lạm phát sau khi bị tác động theo dự đoán sẽ rơi vào các
mục tiêu lạm phát đã đề ra trước đó. Chính sách tiền tệ sau đó sẽ được thực thi dựa
vào công cụ chính sách được chọn này và với sự tham khảo các thông tin khác có
được trên thị trường. Khi thị trường xuất hiện các cơn sốc kinh tế, cách hữu hiệu mà
các NHTW xử lý là xem xét lại ảnh hưởng của các cơn sốc đó đến mức dự-báo-
lạm-phát-có-điều-kiện đã được đưa ra trước đây như thế nào và từ đó có những thay
đổi thích hợp về công cụ chính sách (nếu cần thiết) nhằm tác động để đưa mức dự-
báo-lạm-phát-có-điều-kiện hướng về lại các mục tiêu lạm phát đã đề ra.
Khi mà sự thành công của chính sách tiền tệ được đánh giá dựa vào những
kết quả cuối cùng và tồn tại một khoảng thời gian từ lúc một chính sách được thực
hiện đến khi chính sách có tác động, sự thành công của chính sách tiền tệ, do đó,
còn tùy thuộc vào những biến chuyển xảy ra trong những khoảng thời gian này.
Những biến chuyển mới phát sinh có thể bị cộng hưởng dưới tác động của các tác
nhân trong nền kinh tế làm cho hiện trạng nền kinh tế trở nên bi đát hơn khi chính
sách tiền tệ chưa kịp có hiệu lực. Mức lãi suất trong ngắn hạn có tác động rất ít đến
hành động của các chủ thể kinh tế. Cái mà ảnh hưởng hơn nhiều đó là các dự đoán
và mong đợi của các chủ thể trong nền kinh tế đối với các chính sách thiết lập lãi
suất của ngân hàng trung ương. Các chủ thể kinh tế đưa ra các quyết định và hoạt
động kinh tế dựa trên các dự đoán và mong đợi này. Do đó, khả năng của các ngân
hàng trung ương trong việc định hướng dư luận trở thành một nhiệm vụ cực kì quan
trọng. “Neo giữ” được niềm tin và mong đợi của các tác nhân trong nền kinh tế,
ngân hàng trung ương xem như đã thiết lập được các điều kiện ban đầu nhằm bình
ổn lạm phát. Và ở đây, uy tín của ngân hàng trung ương phát huy tác dụng. Một uy
tín tốt là một tài sản lớn đối với bất kì một ngân hàng trung ương nào. Và khi mà
Đề tài 9 Nhóm 10
4
xây dựng được một uy tín như vậy, ngân hàng trung ương đã thành công môt phần
trong nhiệm vụ của mình.
Để xây dựng và duy trì một mức độ khả tín cao, ngân hàng trung ương cần
một sự minh bạch cao. Các NHTW thường xuyên cung cấp các báo cáo chính sách
tiền tệ, giải thích ý nghĩa của chúng cũng như động lực phía sau các chính sách đó.
Trong nhiều trường hợp, họ cũng sẽ khuyến cáo các chính sách có thể được thực
hiện trong tương lai tới các chủ thể trong nền kinh tế. Ngược lại, một mức độ tin
cậy cao còn cho phép các NHTW uyển chuyển hơn trong việc thực hiện chính sách
tiền tệ của mình. Về lâu về dài, thay vì chỉ tập trung duy nhất vào việc bình ổn lạm
phát, chính sách tiền tệ còn phải hướng đến các mục tiêu khác như bình ổn nền kinh
tế thực, hiệu quả trong sử dụng tài nguyên, v.v. Ở đây, NHTW cũng phải rõ ràng
khi cho các tác nhân kinh tế biết cách tiếp cận của mình.
Và sau cùng, ngân hàng trung ương là cá thể chịu trách nhiệm cuối cùng về
các chính sách đề ra. Một mức giải trình (accountability) cao là điều cần thiết nhằm
giúp NHTW có thêm động lực thực hiện những mục tiêu của mình. Khi mà các mục
tiêu được đưa ra công khai và minh bạch, hoạt động của các NHTW chịu sự giám
sát chặt chẽ của công chúng. Trong nhiều trường hợp, các NHTW còn chịu sự giám
sát và trách nhiệm giải trình với các tổ chức, cơ quan khác nhau, thường là quốc hội
hoặc một cơ quan chỉ định bởi chính phủ, với trách nhiệm giải trình khi lạm phát ra
khỏi mục tiêu đã đề ra.
Trong thực tiễn, không có 2 quốc gia nào có cơ chế LPMT y hệt nhau, mà có
sự kết hợp giữa các thành tố của cơ chế LPMT trong hầu hết các quốc gia. Một số
NHTW như Ngân hàng Dự trữ Úc có chỉ thị kép, bao gồm ổn định giá cả và việc
làm đầy đủ. Bên cạnh đó, một số NHTW thiết lập mục tiêu là điểm lạm phát (một
chỉ số lạm phát cụ thể), một số khác là một khung chỉ số lạm phát, một số khác lại
xác định khung thời gian để đạt mục tiêu lạm phát, trong khi số khác thì không…
(Truman, 2003).
Mục đích chính của LPMT là duy trì và kiểm soát lạm phát ở mức thấp. Ðiều
này tạo nền tảng ổn định kinh tế, đẩy lùi sự không chắc chắn và thúc đẩy các hợp
đồng dài hạn. Tuy nhiên đạt được một chỉ số lạm phát trong kế hoạch không phải là
mục tiêu cuối cùng của một quốc gia, Seyfried và Bremmer (2003) cho rằng, mục
đích của LPMT không chỉ kiềm chế lạm phát hiện hành, mà còn tập trung vào mục
tiêu trung, dài hạn. Vì vậy, NHTW, theo Bernanke và Mishkin (1997) nên theo dõi
Đề tài 9 Nhóm 10
5
chặt chẽ các chỉ báo có quyền năng dự báo lạm phát trong tương lai. Pui (2003)
cảnh báo cơ chế LPMT với ý nghĩa thuần túy (trong đó, sản lượng và tăng trưởng
kinh tế không gắn trọng số hay tầm quan trọng) không chắc sẽ tối đa hóa phúc lợi
xã hội bởi vì một sự thu hẹp hay mở rộng hoạt động kinh tế sẽ không có ý nghĩa
chừng nào mục tiêu lạm phát không thực hiện được.
2. Đặc tính chung của cơ chế lạm phát mục tiêu
Lạm phát mục tiêu có thể được miêu tả như một cơ chế điều hành CSTT dựa
trên nền tảng sử dụng việc dự báo lạm phát làm chỉ số mục tiêu trung gian. NHTW
sẽ dự báo xu hướng lạm phát năm tới để đưa ra chỉ số lạm phát mục tiêu (định
hướng bằng một chỉ số hoặc một khoảng biên độ) cho năm kế hoạch mà không có
trách nhiệm thực hiện bất cứ chỉ tiêu nào khác. Trong giới hạn của mình, NHTW
có thể linh hoạt lựa chọn và sử dụng bất kỳ các công cụ để chỉ đạt một mục tiêu
duy nhất - chỉ số lạm phát mục tiêu.
Về kỹ thuật việc xác định chỉ số mục tiêu (hay lạm phát mục tiêu) bao gồm
các bước:
(1)Lựa chọn loại chỉ số giá (dựa trên mức độ giá cả hoặc tỷ lệ lạm phát);
(2)Hình thành mục tiêu;
(3)Tính toán xu hướng lạm phát năm sau;
(4)Ưu việt cơ bản nhất của lạm phát mục tiêu là nó không bị can thiệp bởi các
chỉ số kinh tế vĩ mô khác như các mục tiêu trung gian truyền thống (M2, M3
hay tỷ giá). Một sự khác biệt nữa với các cơ chế điều hành khác là nó tạo cho
NHTW sự tự do và linh hoạt trong việc điều hành CSTT. Ví dụ trong trường
hợp lấy khối lượng tiền hoặc tỷ giá lạm mục tiêu trung gian, công chúng và
các doanh nghiệp có thể kiểm soát dễ dàng và khi các chỉ số như lạm phát, lãi
suất hay tỷ giá biến động họ sẽ có những phản ứng tiêu cực trước tình trạng
điều hành CSTT của quốc gia. Chính sự khác biệt này tạo điều kiện cho
NHTW chủ động hơn trong điều hành CSTT. Xác định lạm phát mục tiêu
(một chỉ số hoặc một khoảng biên độ);
(5)Thoả thuận về khả năng huỷ bỏ giá trị mục tiêu hoặc từ chối chỉ số lạm phát
mục tiêu trong một số trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên để áp dụng lạm phát
mục tiêu thì NHTW, trước hết, phải có được mức tin tưởng cao từ phía xã hội
và phải hoạt động một cách minh bạch. Hơn nữa, kinh nghiệm quý báu của
các nước áp dụng chỉ số lạm phát mục tiêu đã chỉ ra sự cần thiết hình thành
Đề tài 9 Nhóm 10
6
những điều kiện tối thiểu để áp dụng lạm phát mục tiêu trong điều hành
CSTT. Trên hết tất cả, lạm phát mục tiêu chỉ có thể áp dụng ở những nước
mà ở đó có thể đảm bảo duy trì lạm phát ở mức thấp không chỉ trên hình thức
mà trên cả thực tế. Các cơ quan quản lý tiền tệ cần hiểu rằng lạm phát không
thể bù đắp tổn hại cho nền kinh tế, có nghĩa rằng với sự trợ giúp của tiền tệ,
việc bành trướng ngân sách sẽ không những không thúc đẩy phát triển các
khu vực kinh tế, mà tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách sẽ còn là tiền đề trực tiếp
cho sự gia tăng giá cả trong nền kinh tế, phá hủy tính ổn định của khu vực tài
chính và làm tổn hại đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Ngoài ra, lạm
phát mục tiêu đòi hỏi phải thoả mãn hai điều kiện then chốt:
Thứ nhất, NHTW cần có một mức độc lập tương đối để thực thi CSTT, mặc
dù không có một NHTW nào có thể hoàn toàn độc lập khỏi sự ảnh hưởng của chính
phủ. NHTW cần phải, trong giới hạn cho phép, được tự do lựa chọn các công cụ để
đạt được tỷ lệ lạm phát mục tiêu. Để thực hiện yêu cầu này, quốc gia đó cần từ bỏ
nguyên tắc ''ngân sách chi phối'', cũng như các vấn đề thuộc chính sách tài khoá
không được gây bất cứ ảnh hưởng nào đến CSTT. Số thoát khỏi ngân sách chi phối
ngụ ý rằng các khoản vay từ NHTW của chính phủ phải ở mức thấp nhất (hoặc tốt
nhất bằng 0) và các thị trường tài chính trong nước có đủ độ sâu để ''nuốt chửng''
các đợt phát hành nợ của chính phủ.
Hơn nữa, sự thoát khỏi ngân sách chi phối cũng ngụ ý rằng chính phủ phải có
cơ sở nguồn thu rộng rãi và không phải đưa một cách có hệ thống vào nguồn thu từ
in tiền. Nếu chi phối về mặt tài khoá tồn tại thì chính sách thuế khoá sẽ gây áp lực
đến lạm phát và thổi bay hiệu quả của CSTT. Trên thực tế, điều này được thể hiện
qua việc chính phủ không muốn làm mếch lòng công chúng bằng việc yêu cầu
NHTW, ví dụ, giảm lãi suất để tăng thuế.
Thứ hai, NHTW phải có khả năng thực hiện lạm phát mục tiêu cũng như
không có trách nhiệm với các mục tiêu khác như: tiền lương, mức thất nghiệp hay
tỷ giả. Ví dụ, nếu một quốc gia duy trì chế độ tỷ giá cố định, trong điều kiện các
luồng vốn dịch chuyển mạnh như hiện nay thì không thề cùng một lúc thực hiện
được lạm phát mục tiêu. Hơn nữa là khi NHTW duy t