1. Lí do chọn đề tài
Thoạt nhìn, Đông Nam Á thể hiện sự đa dạng và phân hoá đáng kể. Nhìn kỹ hơn chúng ta thấy những tương đồng tiềm ẩn và sự thống nhất cơ bản. Trong khi các yếu tố chính trị, lịch sử và tôn giáo đã khiến các dân tộc và quốc gia Đông Nam Á hoàn toàn khác biệt nhau, thì về cơ bản các dân tộc này vẫn giữ sự thống nhất nhờ vị trí, khí hậu và nhiều đặc điểm văn hoá nói chung.
Không phải vài thập kỷ nay, khi trở thành một điểm nóng bỏng trong đời sống chính trị của thế giới, mà Đông Nam Á nổi lên như một khu vực địa lí- lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với loài người. Cũng không phải bắt đầu từ chủ nghĩa thực dân hoặc xa hơn nữa, hay từ phát kiến địa lí, khi các quốc gia có một nền văn minh lâu đời và phát triển trở thành vương quốc già cỗi, nơi các nước thực dân xông đến, tìm cách chiếm đoạt và chia nhau xâu xé, mà Đông Nam Á được quan tâm nhiều hơn của toàn thế giới.
Đông Nam Á vốn có một ý nghĩa quan trọng trong toàn bộ lịch sử thế giới, từ những bước đi đầu tiên của lịch sử loài người do những điều kiện tự nhiên thuận lợi của khu vưc. Không phải ngẫu nhiên mà mối liên hệ của khu vực này với thế giới, đã được xác lập mấy chục thế kỷ qua. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà xuất hiện ở Đông Nam Á những nhà địa lí, du lịch, nhà truyền giáo hay ngoại giao, của cả phương Đông và phương Tây trong suốt chiều dài lịch sử.
Trước đây người ta thường hiểu tầm quan trọng của Đông Nam Á chủ yếu là ở vị trí địa lí của nó. Khu vực này được coi là hành lang, cầu nối giữa phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản ) với Phương Tây (Ân Độ, Tây Á, Địa Trung Hải ). Thậm chí cho đến gần đây đánh giá lại sự cống hiến về văn hoá và vai trò của lịch sử Đông Nam Á, một số nhà nghiên cứu vẫn coi khu vực này là “ống thông gió” hay “ngã tư đường”. Quan niệm này rõ ràng là chưa đầy đủ. Do những điều kiện riêng về tự nhiên, tộc người, vị trí địa lí và quá trình lịch sử. Đông Nam Á phải được coi là một trung tâm văn minh, trung tâm thu- phát văn hoá, ít ra la ở những giai đoạn nhất định, trung tâm kinh tế (chứ không phải là)một cái chợ chuyên buôn bán hàng hoá nước ngoài.
Ngay nay, Đông Nam Á đang chuyển động theo hướng tích cực, từng bước hội nhập với thế giới.
Trên thực tế, chúng ta vẫn thấy có những quan điểm đánh giá, nhìn nhận Đông Nam Á chưa xứng đáng với tầm vóc của khu vực, hoặc là xem nhẹ những giá trị vật chất và tinh thần nó. Chính vì vậy, để làm sáng rõ vấn đề này, cũng như tìm hiểu về lịch sử anh hùng chống thực dân giành độc lập dân tộc của các quốc gia Đông Nam Á, tìm hiểu một Đông Nam Á năng động, tràn đầy sức sống trong thời đại toàn cầu hoá
Tất cả những vấn đề trên đây cần được nghiên cứu và giải đáp một cách hệ thống, giúp cho việc nhận thức về Đông Nam Á được đầy đủ và hoàn thiện. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Tổng quan Đông Nam Á” làm tiểu luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với vị trí và tầm quan trọng của mình trong lịch sử, Đông Nam Á đã từ lâu thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và nước ngoài, nhiều nhà khoa học khác nhau, các viện nghiên cứu: Viện Quan hệ Quốc tế, Viện nghiên cứu Đông Nam Á thuộc trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia và một số cơ quan khác đã có những công trình nghiên cứu về Đông Nam Á được xuất bản.
Một số tác phẩm được công bố như: “Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)- Bộ ngoại giao; “ Lược sử Đông Nam Á”- tác giả Phan Ngọc Liên, NXB GD năm 1997; “ Lịch sử Đông Nam Á”- tác giả Lương Ninh (chủ biên), NXBGD năm 2005; “Lịch sử phát triển Đông Nam Á”- tác gải Mary Somers Heidhues, NXB Văn hoá thông tin; “Lịch sử 200 quôc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới”- tác giả Cao Liên.
Ngoài những bài viết được công bố thành sách, còn có rất nhiều bài viết, chuyên khảo đăng trên các tạp chí như: Thời báo kinh tế; Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á (6/2006); Báo nhân dân ngày 18,19/4/ 2010
Đây là nguồn tài liệu quý để cho tác giả nghiên cứu, học tập và vận dụng vào quá trình nghiên cứu của mình.
3. Mục đích của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm: giới thiệu một cách tổng quan nhất về Đông Nam Á, từ đó rút ra cái nhìn đúng đắn, toàn diện hơn về một Đông Nam Á.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài cần làm rõ những vấn đề:
- Khái quát Đông Nam Á thời tiền sử và quá trình thực dân hoá
- Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc của các quốc gia Đông Nam Á
- Tìm hiểu một Đông Nam Á năng động, sáng tạo trong thời kỳ hội nhập.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận sử học, chủ yếu sử dụng phương pháp luận sử học, phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích tổng hợp
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung đề tài được chia thành hai chương:
Chương 1: Khái quát Đông Nam Á thời tiền sử và quá trình thực dân hoá
Chương 2: Đông Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ II và quá trình hội nhập
37 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 13628 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tổng quan Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thoạt nhìn, Đông Nam Á thể hiện sự đa dạng và phân hoá đáng kể. Nhìn kỹ hơn chúng ta thấy những tương đồng tiềm ẩn và sự thống nhất cơ bản. Trong khi các yếu tố chính trị, lịch sử và tôn giáo đã khiến các dân tộc và quốc gia Đông Nam Á hoàn toàn khác biệt nhau, thì về cơ bản các dân tộc này vẫn giữ sự thống nhất nhờ vị trí, khí hậu và nhiều đặc điểm văn hoá nói chung.
Không phải vài thập kỷ nay, khi trở thành một điểm nóng bỏng trong đời sống chính trị của thế giới, mà Đông Nam Á nổi lên như một khu vực địa lí- lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với loài người. Cũng không phải bắt đầu từ chủ nghĩa thực dân hoặc xa hơn nữa, hay từ phát kiến địa lí, khi các quốc gia có một nền văn minh lâu đời và phát triển trở thành vương quốc già cỗi, nơi các nước thực dân xông đến, tìm cách chiếm đoạt và chia nhau xâu xé, mà Đông Nam Á được quan tâm nhiều hơn của toàn thế giới.
Đông Nam Á vốn có một ý nghĩa quan trọng trong toàn bộ lịch sử thế giới, từ những bước đi đầu tiên của lịch sử loài người do những điều kiện tự nhiên thuận lợi của khu vưc. Không phải ngẫu nhiên mà mối liên hệ của khu vực này với thế giới, đã được xác lập mấy chục thế kỷ qua. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà xuất hiện ở Đông Nam Á những nhà địa lí, du lịch, nhà truyền giáo hay ngoại giao, của cả phương Đông và phương Tây trong suốt chiều dài lịch sử.
Trước đây người ta thường hiểu tầm quan trọng của Đông Nam Á chủ yếu là ở vị trí địa lí của nó. Khu vực này được coi là hành lang, cầu nối giữa phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản…) với Phương Tây (Ân Độ, Tây Á, Địa Trung Hải…). Thậm chí cho đến gần đây đánh giá lại sự cống hiến về văn hoá và vai trò của lịch sử Đông Nam Á, một số nhà nghiên cứu vẫn coi khu vực này là “ống thông gió” hay “ngã tư đường”. Quan niệm này rõ ràng là chưa đầy đủ. Do những điều kiện riêng về tự nhiên, tộc người, vị trí địa lí và quá trình lịch sử. Đông Nam Á phải được coi là một trung tâm văn minh, trung tâm thu- phát văn hoá, ít ra la ở những giai đoạn nhất định, trung tâm kinh tế (chứ không phải là)một cái chợ chuyên buôn bán hàng hoá nước ngoài.
Ngay nay, Đông Nam Á đang chuyển động theo hướng tích cực, từng bước hội nhập với thế giới.
Trên thực tế, chúng ta vẫn thấy có những quan điểm đánh giá, nhìn nhận Đông Nam Á chưa xứng đáng với tầm vóc của khu vực, hoặc là xem nhẹ những giá trị vật chất và tinh thần nó. Chính vì vậy, để làm sáng rõ vấn đề này, cũng như tìm hiểu về lịch sử anh hùng chống thực dân giành độc lập dân tộc của các quốc gia Đông Nam Á, tìm hiểu một Đông Nam Á năng động, tràn đầy sức sống trong thời đại toàn cầu hoá…
Tất cả những vấn đề trên đây cần được nghiên cứu và giải đáp một cách hệ thống, giúp cho việc nhận thức về Đông Nam Á được đầy đủ và hoàn thiện. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Tổng quan Đông Nam Á” làm tiểu luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với vị trí và tầm quan trọng của mình trong lịch sử, Đông Nam Á đã từ lâu thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và nước ngoài, nhiều nhà khoa học khác nhau, các viện nghiên cứu: Viện Quan hệ Quốc tế, Viện nghiên cứu Đông Nam Á thuộc trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia và một số cơ quan khác …đã có những công trình nghiên cứu về Đông Nam Á được xuất bản.
Một số tác phẩm được công bố như: “Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)- Bộ ngoại giao; “ Lược sử Đông Nam Á”- tác giả Phan Ngọc Liên, NXB GD năm 1997; “ Lịch sử Đông Nam Á”- tác giả Lương Ninh (chủ biên), NXBGD năm 2005; “Lịch sử phát triển Đông Nam Á”- tác gải Mary Somers Heidhues, NXB Văn hoá thông tin; “Lịch sử 200 quôc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới”- tác giả Cao Liên.
Ngoài những bài viết được công bố thành sách, còn có rất nhiều bài viết, chuyên khảo đăng trên các tạp chí như: Thời báo kinh tế; Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á (6/2006); Báo nhân dân ngày 18,19/4/ 2010…
Đây là nguồn tài liệu quý để cho tác giả nghiên cứu, học tập và vận dụng vào quá trình nghiên cứu của mình.
3. Mục đích của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm: giới thiệu một cách tổng quan nhất về Đông Nam Á, từ đó rút ra cái nhìn đúng đắn, toàn diện hơn về một Đông Nam Á.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài cần làm rõ những vấn đề:
- Khái quát Đông Nam Á thời tiền sử và quá trình thực dân hoá
- Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc của các quốc gia Đông Nam Á
- Tìm hiểu một Đông Nam Á năng động, sáng tạo trong thời kỳ hội nhập.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận sử học, chủ yếu sử dụng phương pháp luận sử học, phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích tổng hợp…
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung đề tài được chia thành hai chương:
Chương 1: Khái quát Đông Nam Á thời tiền sử và quá trình thực dân hoá
Chương 2: Đông Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ II và quá trình hội nhập
B- NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT ĐÔNG NAM Á THỜI TIỀN SỬ VÀ QUÁ TRÌNH THỰC DÂN HOÁ
1.1. Đông Nam Á thời tiền sử
1.1.1. Khái quát vị trí địa lí
Đông Nam Á là một khu vực khá rộng, diện tích khoảng 4,5 triệu km2. Trải dài từ 920 đến 1400 kinh Đông và từ khoảng 180 vĩ Bắc chạy qua xích đạo đến khoảng 150 vĩ Nam.
Về mặt địa lí hành chính, Đông Nam Á có 10 nước gồm: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miama, Malaixia, Xingapo, Inđônêxia, Philippin, Brunây, (hiện nay có 11 nước thêm Đông Timo).
Đông Nam Á là một vùng đất đầy bí ẩn ttrong thời kỳ cổ đại, song cùng với thời gian Đông Nam Á được hiểu một cách ngày càng đầy đủ và chính xác hơn. Người Trung Quốc xưa kia thường dùng từ Nam Dương để chỉ những nước nằm trong vùng biển phía Nam . Người Nhật gọi vùng này là Nan Yo. Người Arập xưa gọi vùng này là Qumr, còn Người Ân Độ thì vẫn gọi vùng này là Suvarnabhumi (đất vàng) hay Suvarnadvipa (đảo vàng). Lái buôn thời bấy giờ Đông Nam Á được nhìn nhận là “ một vùng thần bí, nơi sản xuất hương liệu, gia vị và các sản phẩm kì lạ khác.Sau chiến tranh thế giới thứ 2, thuật ngũa Đông Nam Á mới xuất hiện trên bản đồ thế giới như một khu vực riêng biệt và có tầm quan trọng đặc biệt. Một mặt đây là khu vực có vị trí địa lí, chính trị, quân sự quan trọng, mặt khác Đông Nam Á còn là một trung tâm văn minh, một khu vực địa lí, lịch sử, văn hoá.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển lịch sử, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của các nền văn minh bên ngoài, song sự tác động ấy không vì thế mà biến vùng này thành “Ấn Độ hoá” hay “Hán hoá” mà nó đã “lựa chọn những gì thích hợp trong thế giới Đraviđa, đồng thời phục tùng các đặc điểm của mình, chứ không phải tiếp thu tất cả những gì xa lạ với họ”.
Do điều kiện địa lí của mình, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa, tạo nên hai mùa tương đối rõ rệt là: mùa khô lạnh, mát và mùa mưa tương đối nóng ẩm. Vì thế Đông Nam Á được coi là khu vực “Châu Âu gió mùa”. Với những vùng đất trù phú, với những đô thị đông đúc và thịnh vượng, những khu rừng nhiệt đới phong phú về thảo mộc và chim muông, những cây gia vị, cây hương liệu đặc trưng như:hồ tiêu, sa nhân, đậu khấu, hồi quế, trầm hương…đặc biệt là cây lúa nước. Đông Nam Á được coi là “cái nôi” của cây lúa nước và là một trong 5 trung tâm cây trồng lớn nhất thế giới. Văn hoá Hoà Bình đã chứng minh cư dân ở đây đã thuần hoá nhiều giống lúa, thực vật khác nhau, xuất hiện nông nghiệp sơ khai với nhiều cây trồng khác nhau đặc biệt là cây có củ, bầu, bí. Có người còn cho rằng chủ nhân của văn hoá Hoà Bình là người biết trồng trọt đầu tiên trên thế giới; niên đại nông nghiệp ở đây lên tới hơn 1 vạn năm TCN và vì thế “Đông Nam Á có một cuộc cách mạng nông nghiệp sớm nhất thế giới”.
Khí hậu nhiệt đới gió mùa còn tác động tạo nên sự thất thường về khí hậu, có sự phân hoá tạo nên cảnh quang đa dạng, đồng bằng, đồi núi và vùng biển, đó là cơ sở tạo nên tính đa dạng trong văn hoá tộc người của khu vực trong mỗi quốc gia.
Vị trí địa lí nằm án ngữ trên con đường hàng hải nối liền giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Đông Nam Á từ lâu được coi là hành lang, là cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải.
Việc đi lại bằng thuyền buồm ở Đông Nam Á đã có từ rất lâu. Dự trên các tài liệu khoa học W.Solhelme đã nhận định rằng kỹ thuật đi biển sớm nhất xuất hiện ở vùng duyên hải biển Xulu khoảng 8000-9000 năm trước. Kỹ thuật hàng hải cổ đạt tới đỉnh cao vào khoảng thế kỷ thứ V TCN khi nhiều hình thuyền kiểu dáng lớn, mũi cong được khắc trên trống đồng Đông Sơn.
Việc đi lại buôn bán bằng đường biển ở Đông Nam Á diễn ra nhộn nhịp từ thế kỷ thứ II. Đến thế kỷ thứ VII thì thuyền buồm Ảrập đã thường xuyên đi lại vùng này mua bán hương liệu, gia vị.
Đông Nam Á thời kỳ tiền sử
Điều kiện tự nhiên của Đông Nam Á thuận lợi cho những bước đi đầu tiên của con người, điều đó giải thích vì sao con người lại xuất hiện ở đây từ rất xa xưa. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều dấu vết của quá trình chuyển biến từ vượn thành người ở Đông Nam Á.
Cách đây không lâu người ta đã phát hiện được dấu vết hoá thạch vượn bậc cao Pondaung (Mianma) có niên đại 40 triệu năm và vượn khổng lồ ở Inđônêxia sống cách đây khoảng triệu năm. Đặc biệt hoá thạch của người Pitêcantơrốp tìm thấy ở Giava cách đây khoảng 2 triệu năm là dấu vết xưa nhất của người tối cổ ở Đông Nam Á. Di cốt, mảnh di cốt và những công cụ bằng đồ đá của người tối cổ còn tìm thấy ở nhiều nơi khác trong khu vực như Việt Nam, Thái Lan, Philipin, Malaixaia… việc phát hiện ra chiếc sọ Người tinh khôn (Hômô Sapiêns) ở hang Nia (Saraoăc đảo Boónêô)
với niên đại là 396.000 năm và một chỏm sọ ở hang Tabon (Philipin) khoảng 30.500 năm. Điều này, đã cho thấy quá trình chuyển biến từ vượn thành người ở Đông Nam Á là trực tiếp và liên tục.
Cùng sinh tụ trên một khu vực địa lí, cư dân ở Đông Nam Á đã sáng tạo ra một nền văn hoá bản địa có nguồn gốc chung từ thời tiền sử và sơ sử trước khi tiếp xúc với văn hoá Trung Quốc và Ấn Độ.
Sau khi giai đoạn đồ đá cũ với những di chỉ nổi tiếng như: núi Đọ, núi Quan Yên, Xuân Lộc (Việt Nam), Anya (Mianma), Pingnoi (Thái Lan), Tampan (Malaixia)… người ta vẫn thấy sự phát triển liên tục từ đồ đá giữa đến sơ kỳ đồ sắt ở Đông Nam Á.
Điển hình của thời kỳ đồ đá giữa của khu vực là văn hoá Hoà Bình với loại hình công cụ đặc trưng là những viên đá cuội được ghè đẽo trên cả hai mặt, rìu đá cuội có lưỡi ở một đầu, chày nghiền…
Đến thời đại đá mới, kỹ thuật tạc đá đạt tới đỉnh cao.
Đến thời hậu kỳ đá mới, cư dân Đông Nam Á chuyển dần từ nông nghiệp trồng vườn sang trồng lúa. Tiêu biểu là nền văn hoá sông Hồng, Thái lan…Họ đã biết đến công cụ bằng đồng thau. Tiếp đến là các nền văn hoá Đồng đậu, Gò mun, Đông Sơn ở Việt Nam; Non Nóc; Ban Chiang, Bản Nadi ở Thái Lan…càng cho thấy nghệ thuật đúc đồng ở Đông Nam Á. Điều này chứng tỏ ở Đông Nam Á đã có một nền văn minh đồng thau phát triển rất sớm.
Vào những thế kỷ thế kỷ tiếp giáp của công nguyên, trên cơ sở phát triển của đồ đồng, đồ sắt bắt đầu được sử dụng phổ biến, lúc này xã hội đang đứng trước trước ngưỡng cửa phân chia giai cấp và nhà nước.
Sự hình thành các quốc gia Đông Nam Á còn gắn liền với việc tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa. Những ảnh hưởng này là khá toàn diện và sâu sắc, cả về chữ viết, văn chương, tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc và điêu khắc…
Những cư dân Đông Nam Á, gặp làn sóng văn hoá Ấn Độ theo chân các thương gia và các nhà truyền đạo một cách hoà bình và tiếp nhận nền văn hoá Trung Hoa từ những người Trung Quốc thống trị. Chính sự tiếp xúc văn hoá này đã làm cho các tộc người ở đây định hình và phát triển hơn với sự ra đời của các vương quốc cổ ở Đông Nam Á.
Về những ảnh hưởng của Văn hoá Ấn Độ đối với Đông Nam Á, tiêu biểu: Ngôn ngữ và văn tự (chữ Phạn và pali); Văn học; Tôn giáo (đạo Hinđu và Đạo phật); Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc; Phương thức canh tác và quản lí xã hội
Có thể nói, ảnh hưởng này khá là toàn diện và sâu sắc. Song không vì thế mà có thể nói cư dân Đông Nam Á đã tạo dựng được một nền văn hoá “Phi Ấn”, “Phi Hoa” mà phải thừa nhận thuộc tính tính tiếp thu, thâu hoá của văn hoá Đông Nam Á để làm nên bản sắc đa dạng của mình.
Trong những điều kiện lịch sử cụ thể, với cách ứng sử không giống nhau trong quá trình tiếp xúc với văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ và sau này là văn hoá Âu- Mĩ, cư dân Đông Nam Á đã xây dựng nên một văn hoá quốc gia- dân tộc độc đáo, đa dạng, phong phú, vừa có sự khác biệt trong tính đa dạng vừa có tính tương đồng khu vực và đã đóng góp vào kho tàng văn hoá chung của loài người những giá trị tinh thần độc đáo. Cụ thể:
Trên cơ sở chữ Phạn, người Khơme đã sáng tạo ra chữ Khơme cổ vào thế kỷ thứ VII.
Kiến trúc Ăngcovát, Ăngco Thom của Campuchia, tháp Chàm của Việt Nam…vừa mang dáng dấp của kiến trúc Ấn Độ vừa có những nét riêng độc đáo của từng dân tộc là di tích lịch sử văn hoá không chỉ của Đông Nam Á mà của cả loài người.
Từ khoảng đầu công nguyên đến thế kỷ thứ VII, hàng loạt quốc gia sơ kỳ được hình thành và phát triển ở khu vực phía Nam – Đông Nam Á lục địa. Vùng Đông Nam Bộ Việt Nam có vương quốc Chămpa, vùng trung và hạ lưu Mê Kông có các vương quốc Sresthapura, Isanapuna, Naravara và Phù Nam. Trên bán đảo Mã Lai có vương quốc Lankasuka, Tambralinga và các nước Tumasic ở gần Xingapo ngày nay. Trên đảo Giava từ thế kỷ thứ IV đã xuất hiện vương quốc Tamủa ở phía Tây. Trong số các vương quốc này thì vương quốc Phù Nam là vương quốc hùng mạnh có tầm quan trọng hơn cả.
Từ đầu thế kỷ thứ VII đến thế kỷ X, Đông Nam Á diễn ra quá trình hình thành các quốc gia “dân tộc”. Bên cạnh những quốc gia đã xuất hiện từ trước như Âu lạc của người Việt, Chămpa của người Chăm, đây là thời kỳ hình thành vương quốc Chân Lạp của người Khơme, Xri Vijaya trên đảo Xumatơra, Kalinga ở Giava…
Từ thế kỷ thứ X đến XV là giai đoạn xác lập và phát triển triển thịnh đạt của các quốc gia phong kiến “dân tộc” ở Đông Nam Á. Trên khu vực Đông Nam Á hải đảo, Inđônêxia dưới vương triều Môgiôpahit bao gồm hơn 10 nước nhỏ và đảo phụ thuộc. Ở Đông Nam Á lục địa ngoài quốc gia Đại Việt và Chămpa, Campuchia từ thế kỷ thứ IX cũng bắt đầu bước vào thời kỳ Ăngco huy hoàng và trở thành một vương quốc mạnh, ham chiến nhất trong khu vực. Trên khu vực sông Mê Nam, từ giữa thế kỷ IX, quốc gia Pagan đã dần mạnh lên chinh phục các tiểu quốc khác thống nhất lãnh thổ, mở đầu cho quá trình hình thành và phát triển Mianma.
Ngoài những quốc gia đã được hình thành còn xuất hiện thêm các vương quốc khác như Sukhôthay của Người Thái và Lanxang của dân tộc Lào.
Sau thế kỷ XV, Đông Nam Á bước vào thời kỳ suy thoái, tuy nhiên sự suy thoái diễn ra không đồng đều ở mỗi quốc gia. Nguyên nhân sâu sa của tình trạng này bắt nguồn từ trong lòng chế độ phong kiến. Nền kinh tế phong kiến trở nên lỗi thời không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Chính quyền chuyên chế không chăm lo đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt, những cuộc khởi nghĩa của nông dân liên tiếp nổ ra. Trong bối cảnh đó, sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân vào Đông Nam Á là nhân tố cuối cùng có ý nghĩa quyết định dẫn tới sự suy sụp của các quốc gia phong kiến trong khu vực.
1.2. Qúa trình thực dân hoá và phong trào giải phóng dân tộc của các quốc gia Đông Nam Á
1.2.1.Qúa trình xâm chiếm các quốc gia Đông Nam Á của của nghĩa thực dân Phương Tây
Đến thế kỷ XVI, ở các nước Đông Nam Á cơ bản vẫn là xã hội phong kiến. Nhưng thế kỷ XVI cũng đã trở thành mốc đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển của khu vực. Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa thực dân ở khu vực, thì tiền đồ phát triển lịch sử của Đông Nam Á cũng từng bước có những thay đổi.
Sau các cuộc phát kiến địa lí, các nước phương Tây lần lượt xây dựng các thương điếm buôn bán, những chạm tiếp tế cho các hạm thuyền ở một số địa điểm của Đông Nam Á. Tiếp đó các nước thực dân phương Tây tranh chấp nhau, chiếm các quốc gia ở khu vực, thiết lập chế độ thuộc địa, lôi kéo các quốc gia này vào hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, làm biến dạng cấu trúc xã hội truyền thống của các nước, điều đó cũng có nghĩa làm biến dạng quá trình phát triển triển lịch sử của Đông Nam Á. Nước duy nhất ở khu vực Đông Nam Á- nước Xiêm- giữ được độc lập về chính trị, nhưng về kinh tế cũng bị lôi cuốn vào hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, bản đồ chính trị của các nước Đông Nam Á dần dần có sự thay đổi: từ các quốc gia phong kiến độc lập trở thành những nước thuộc địa hoặc phụ thuộc của thực dân châu Âu.
Khi các nước phương Tây bước vào thời kỳ cận đại, chủ nghĩa tư bản ra đời và thống trị, thì ở phương Đông, các quốc gia còn đang ở trong chế độ phong kiến lạc hậu, trì trệ.
Ở khu vực Đông Nam Á, sau thời kỳ phát triển thịnh đạt của chế độ phong kiến, như đã nói ở trên, bước sang thế kỷ XVI chế độ phong kiến lâm vào suy yếu. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho các cuộc xâm nhập và xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Vào thời cận đại, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập ở nhiều nước Châu Âu, mặc dù có những nước chưa trải qua cách mạng tư sản. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản Châu Âu ngày càng đòi hỏi vốn, nguyên liệu, thị trường, nhất là khi giai cấp tư sản lên nắm chính quyền. Để đáp ứng nhu cầu này, các nước Châu Âu đã hướng sang phương Đông và họ tìm đường sang phương Đông, trong đó có các nước Đông Nam Á và đi đầu là các thương nhân. Từ những hoạt động buôn bán, trao đổi, truyền đạo (Thiên chúa giáo và tin lành) người phương Tây chuyển sang chính sách xâm lược, biến các nước phương Đông nói chung và các nước Đông Nam Á nói riêng thành thuộc địa. Trong buổi đầu cận đại, khi chủ nghĩa tư bản phát triển chưa phát triển cao, thì công cuộc buôn bán và chinh phục các quốc gia phương Đông thường được giao cho các công ty thương mại lớn mà thường được gọi là công ty Ấn Độ. Các công ty này thực hiện chính sách “vừa buôn bán, vừa ăn cướp”. Nó được xem như là một “nhà nước con”với bộ máy chính quyền và quân đội đầy đủ.
Sau những cuộc phát kiến địa lí, Đông Nam Á trở thành một trong những đối tượng xâm lược quan trọng của thực dân Bồ Đào Nha, sau đó là các cường quốc thực dân Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh và Pháp…kỷ nguyên của chủ nghĩa thực dân được bắt đầu vào một phần tư đầu tiên của thế kỷ XVI. Sau khi thiết lập được các thương điếm, các căn cứ ở dải ven biển phía Tây châu Phi và cùng với quá trình xâm chiếm châu Mĩ, người Bồ Đào Nha sau đó là người Tây Ban Nha bắt đầu quá trình xâm lược châu Á. Đông Nam Á trở thành một trong những vùng đất đầu tiên mà thực dân phương Tây quan tâm và tiến hành xâm lược.
Bồ Đào Nha là cường quốc châu Âu đầu tiên có mặt ở châu Phi, Ấn Độ, Đông Nam Á và tiến hành xây dựng đế quốc thuộc địa của mình. Sau khi chiếm được vùng Goa ( phía Bắc Calicut- Ấn Độ), năm 1509, người Bồ Đào Nha toan tính mở rộng thế lực sang Đông Nam Á, liền phái hạm thuyền đến Achê (Acheh). Nhận thấy eo biển Malacca có vị trí quan trọng thông thương từ Tây sang Đông, thuận lợi cho việc đi sâu vào khu vực Đông Nam Á, người Bồ Đào Nha mưu toan chiếm con đường qua eo biển này. Năm 1511, đoàn tàu chiến Bồ Đào Nha đã chiếm thủ đô của vương quốc Hồi giáo Malacca (Inđônêxia). Malacca thuộc Bồ Đào Nha từng bước trở nên thịnh vượng, việc buôn bán của nó tiếp tục được mở rộng và thu được những khoản lợi nhuận lớn. Malacca chẳng những là một trung tâm thương nghiệp sầm uất, mà nó còn trở thành căn cứ cửa ngõ đi vào Đông Nam Á thuận lợi. Năm 1512, người Bồ Đào Nha tiến bước xa hơn, họ chiếm đảo Ambon ở Môlucu- quần đảo thương hiệu lớn nhất miền Đông Nam Inđônêxia. Năm 1592, họ chiếm và xây dựng pháo đài ở Técnate, và họ có mặt ở các đảo Luxông, Palavan…
Ở các đảo và các quốc gia khác, người Bồ Đào Nha chưa chiếm được thì họ buộc tạm thời đặt các thương điếm như ở Giava, Sumatra, Xiêm, Miến điện, thậm chí ở Campuchia và Việt Nam.
Tiếp sau người Bồ Đào Nha là người Tây Ban Nha. Năm 1521, khi con tàu Victoria của Magienlăng (Magellan) cập bến ở một trong những đảo mà ông phát hiện nằm trong khu vực lợi ích của Bồ Đào Nha, thì đã báo hiệu một cuộc tranh chấp giữa người Bồ Đào Nha và người Tây Ban Nha ở khu vực Đông Nam Á. Bởi theo sự giàn xếp của Giáo Hoàng La Mã thì đây là “khu vườn riêng” của người Bồ