Nói về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải ba vấn đề có tính thời sự, song
cũng rất phức tạp, đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu. Ba vấn đề đó là:
1) Vấn đề thiết kế mô hình cụ thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2) Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. 3) Vấn đề tạo lập những
điều kiện, cơ sở cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là bước đột phá trong đổi mới tư duy
chính trị của Đảng ta, đánh một dấu mốc quan trọng trong đổi mới hệ thống chính trị
nói chung, đổi mới Nhà nước ở nước ta nói riêng.
Khi chủ nghĩa xã hội bước vào cải tổ, cải cách, đổi mới, một số nhà lý luận, chính trị
gia xã hội chủ nghĩa đã đề xuất xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền. Đề xuất này
đã làm nảy sinh những ý kiến chỉ trích, phản ứng từ không ít người. Khi đồng nhất
nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, một số người đã cho rằng, xây dựng nhà
nước pháp quyền là từ bỏ chủ nghĩa xã hội. Có người lại coi việc xây dựng nhà nước
pháp quyền là thừa nhận sự phân lập các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà
quyền lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thống nhất, không phân chia, và do vậy,
không phù hợp
104 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 9742 | Lượt tải: 11
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Nói về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải ba vấn đề có tính thời sự, song
cũng rất phức tạp, đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu. Ba vấn đề đó là:
1) Vấn đề thiết kế mô hình cụ thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2) Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. 3) Vấn đề tạo lập những
điều kiện, cơ sở cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là bước đột phá trong đổi mới tư duy
chính trị của Đảng ta, đánh một dấu mốc quan trọng trong đổi mới hệ thống chính trị
nói chung, đổi mới Nhà nước ở nước ta nói riêng.
Khi chủ nghĩa xã hội bước vào cải tổ, cải cách, đổi mới, một số nhà lý luận, chính trị
gia xã hội chủ nghĩa đã đề xuất xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền. Đề xuất này
đã làm nảy sinh những ý kiến chỉ trích, phản ứng từ không ít người. Khi đồng nhất
nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, một số người đã cho rằng, xây dựng nhà
nước pháp quyền là từ bỏ chủ nghĩa xã hội. Có người lại coi việc xây dựng nhà nước
pháp quyền là thừa nhận sự phân lập các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà
quyền lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thống nhất, không phân chia, và do vậy,
không phù hợp. Cũng có người đặt vấn đề, khi đề cập tới nhà nước kiểu mới, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin không hề nói tới nhà nước pháp quyền và do
vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền trong chủ nghĩa xã hội là không theo quan điểm
của các nhà kinh điển, v.v.. Từ một phía khác, có ý kiến lại cho rằng, trong nhà nước
pháp quyền, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, đó là nhà nước của dân,
do dân, vì dân và do vậy, không cần phải phân biệt nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa với nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa nữa.
Sự xuất hiện những ý kiến như vậy trong giai đoạn đầu cải tổ, cải cách, đổi mới ở các
nước xã hội chủ nghĩa cũng là điều dễ hiểu. Một mặt, vấn đề nhà nước pháp quyền
tuy không phải là mới, nhưng phải nói rằng, trước đây, ở các nước xã hội chủ nghĩa,
vấn đề này chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đúng mức. Sự chuẩn bị về mặt
lý luận để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới chỉ là bước đầu,
chưa có sự chín muồi cần thiết, những ý kiến đề xuất mô hình nhà nước pháp quyền
vẫn chỉ trên sách báo. Mặt khác, đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị đòi hỏi cũng
phải có thời gian. Bởi lẽ, đây là lĩnh vực không chỉ mang tính “nhạy cảm cao”, mà
còn là lĩnh vực mà sự thay đổi không phải “một sớm một chiều”. Đó là chưa nói đến
tư duy giáo điều còn ảnh hưởng không nhỏ đối với cả giới nghiên cứu lý luận lẫn
những chính khách ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong học thuyết chuyên chính vô sản, đúng là C.Mác và Ph.Ăngghen chưa sử dụng
thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhưng những tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp
quyền lại được các nhà kinh điển đề cập sâu sắc trong các chủ trương xây dựng nhà
nước kiểu mới, chế độ dân chủ mới, chế độ dân chủ vô sản. Đó là chủ trương xây
dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp; là nhà nước dân chủ cao nhất, triệt để nhất, dân
chủ “do nhân dân tự quy định”; là bước chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công
dân, từ “nhân dân của nhà nước” sang “nhà nước của nhân dân”. Đó là chế độ dân
chủ xuất phát từ con người và pháp luật cũng vì con người. Đó là nhà nước đảm bảo
cho “tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Nhà nước đó xây dựng và phát triển một xã hội có khả năng tạo ra những điều kiện
cơ bản để “giải phóng cá nhân” theo phương châm “xã hội sẽ không thể giải phóng
cho mình được, nếu không giải phóng mỗi cá nhân riêng biệt”… Những tư tưởng cốt lõi
đó của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin vận dụng và phát triển trong sự phân
tích, đánh giá nhà nước tư sản, chế độ cộng hoà dân chủ tư sản, cũng như trong thực tiễn
lãnh đạo nhân dân Nga xây dựng nền pháp luật kiểu mới, nền pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Ở nước ta, tư tưởng nhà nước pháp quyền cũng đã được thể hiện rất đậm nét ở Hồ
Chí Minh, khi Người lãnh đạo nhân dân ta xây dựng nhà nước cách mạng. Đó là tư
tưởng về xây dựng một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ thực sự theo phương
châm “bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền
từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”(1). Chính phủ là chính phủ của nhân dân, Chính phủ phải hứa
với dân: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết
sức tránh”(2). Đó là một nhà nước chịu sự kiểm soát của nhân dân, “tất cả các cơ
quan nhà nước đều phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và
chịu sự kiểm soát của nhân dân” (Điều 6, Hiến pháp 1959). Trong quan hệ với nhân
dân, Hồ Chí Minh khẳng định, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Người viết: “Chế
độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân
dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ”(3). Tư tưởng nhà nước pháp quyền
của Người còn thể hiện trong quyết tâm xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp ngay
trong tình thế cách mạng đang “nghìn cân treo sợi tóc”. Chỉ một ngày sau khi đọc
“Tuyên ngôn độc lập”, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí
Minh đã đề nghị Chính phủ lâm thời xác lập nền tảng dân chủ và pháp quyền cho chế
độ nhà nước cách mạng, đó là tổ chức Tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp dân
chủ. Người nói: “Trước đây chúng ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến
chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân
dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân
chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với
chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền
ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v.”(4).
Tuy nhiên, có thể nói, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, như chiến tranh, nội
chiến, quan niệm về chủ nghĩa xã hội một cách giản đơn và có phần cực đoan khi đối
lập một cách trừu tượng nhà nước tư sản với nhà nước xã hội chủ nghĩa, đồng nhất
nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, coi mô hình nhà nước pháp quyền là
mang tính tư sản…, nên ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta, việc
nghiên cứu và vận dụng một cách có ý thức (chủ động, tự giác) mô hình nhà nước
pháp quyền có nhiều hạn chế, nếu không muốn nói là có thời kỳ bị lãng quên. Đó là
một trong những nguyên nhân khiến dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa trở thành
“có vấn đề”. Dân chủ mang nặng tính hình thức; tình trạng độc đoán, chuyên quyền,
quan liêu có xu hướng phát triển đã làm suy yếu nhà nước. Tổ chức bộ máy cồng
kềnh, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Nhà nước quản lý, điều hành xã hội chủ yếu
bằng mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết, bằng đạo lý, trong khi pháp luật thì bị coi nhẹ.
Chính vì vậy, vấn đề dân chủ đã được đặt ra một cách bức bách ở các nước xã hội
chủ nghĩa nói chung, ở nước ta nói riêng. Trong quá trình đổi mới tư duy về chính
trị, về chủ nghĩa xã hội, nhận thức về nhà nước pháp quyền của Đảng ta ngày càng
đầy đủ hơn, rõ ràng và cụ thể hơn; quyết tâm chính trị là xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa dưới hình thức nhà nước pháp quyền cũng ngày càng cao hơn.
Trong Văn kiện Đại hội VI, quan điểm, chủ trương đổi mới Nhà nước đã manh nha
một số nội dung về Nhà nước pháp quyền. Đó là sự khẳng định “quản lý nhà nước
bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”; phải quan tâm xây dựng pháp luật;
từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho bộ máy nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật(5). Đến Đại VII, quan điểm đổi mới
Nhà nước đã được bổ sung thêm nội dung: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”(6).
Như vậy, có thể nói, qua hai kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới, tư duy về đổi mới Nhà
nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng đã có những bước tiến
quan trọng. Tuy nhiên, chỉ đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
(1994), chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới được Đảng ta
chính thức khẳng định và thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” cũng mới lần đầu tiên
được sử dụng trong văn kiện của Đảng.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường ở nước
ta là việc làm mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, hiểu biết của chúng ta còn ít, có
nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Điều này đòi hỏi chúng ta cần
phải thận trọng trong quyết định, cũng như trong tiến hành thực hiện. Trong Văn
kiện Đại hội VIII (1996), Đảng ta coi xây dựng Nhà nước pháp quyền như một trong
năm quan điểm cần quán triệt trong quá trình tiếp tục cải cách, đổi mới Nhà nước,
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đến Đại hội IX, qua
tổng kết những thành tựu nghiên cứu lý luận, cũng như thực tiễn từng bước xây dựng
Nhà nước pháp quyền, Đảng ta đã coi “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” là một nhiệm vụ mang tính chiến lược và xuyên
suốt trong quá trình “đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy
dân chủ, tăng cường pháp chế”(7). Trong Văn kiện Đại hội X, khi tổng kết lý luận và
thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng ta không những tiếp tục khẳng định chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền, mà còn ghi nhận điều chúng ta “có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản”(8) là một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây
dựng.
Khẳng định xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình Nhà nước pháp
quyền là một bước đột phá trong tư duy và thực tiễn xây dựng Nhà nước trong thời
kỳ đổi mới của Đảng ta. Đó là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu
về nhà nước pháp quyền, đổi mới một cách căn bản, có hệ thống tổ chức và phương
thức hoạt động của Nhà nước ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, nói như vậy không có
nghĩa là ngày một, ngày hai chúng ta có thể xác lập ngay được Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Trong lý luận và cả trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết. Đó là:
1) Vấn đề thiết kế mô hình cụ thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mô hình nhà nước pháp quyền đã được nhân loại thử nghiệm, chọn lọc qua nhiều thế
kỷ và đang trở thành hình thức phổ biến trong thế giới đương đại. Tuy nhiên, xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam không có nghĩa là “bê nguyên” những hình
thức ấy. Vả lại, ngay cả ở các nước phương Tây, nhà nước pháp quyền cũng không
hoàn toàn giống nhau. Ở mỗi quốc gia, nhà nước pháp quyền cũng có những nét độc
đáo riêng, tuỳ thuộc vào các đặc điểm, truyền thống dân tộc cũng như điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Hơn nữa, Nhà nước pháp quyền mà nhân dân ta đang
xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đó, về bản chất, là đối
lập với nhà nước pháp quyền tư sản. Do vậy, về nội dung pháp luật, về bản chất của
pháp luật chắc chắn cũng khác với nhà nước pháp quyền tư sản. Còn về hình thức có
thể có những nét tương đồng mà qua nghiên cứu, chọn lọc, cải biến, chúng ta có thể
kế thừa mặt này, mặt kia của mô hình này hay mô hình khác. Tuy nhiên, đây cũng
không phải là điều đơn giản, thậm chí còn là khá phức tạp và rất nhạy cảm về chính
trị.
Chẳng hạn, việc có vận dụng hay không vận dụng, vận dụng đến mức độ nào thuyết
phân lập các quyền của phương Tây. Ngay cả ở các nước tư bản, mức độ vận dụng
học thuyết này cũng không giống nhau. Điều đó không phải do có sự khác nhau về
chế độ chính trị, mà bắt nguồn từ nhiều lý do khác, trong đó có những quan niệm
khác nhau về tác dụng của sự phân quyền. Mục đích của việc phân quyền là để tránh
sự độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực. Đó là mặt tích cực. Nhưng việc
phân quyền giữa các cơ quan thực hiện quyền lực cũng có những mặt trái của nó. Do
vậy, ở các nước phương Tây cũng xuất hiện quan điểm cho rằng, không nên cường
điệu ý nghĩa mang tính chất lý thuyết của thuyết phân quyền. Hơn nữa, thuyết phân
quyền của phương Tây cũng không chỉ thuần tuý ở khía cạnh kỹ thuật tổ chức – pháp
lý, mà còn là đặc trưng xã hội – chính trị của nhà nước pháp quyền tư sản. Hay, nói
cách khác, không chỉ là phân lập các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà còn
là việc phân chia quyền lực, phân bố quyền lực giữa các giai cấp và các nhóm xã hội,
các lực lượng xã hội. Xuất phát từ những lý do đó, Đảng ta đặt vấn đề, trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta không áp dụng nguyên xi
thuyết phân quyền của phương Tây, mà “có sự phân công rành mạch giữa ba quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp và có sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện những
quyền đó”. Vấn đề đặt ra là làm sao tạo lập được những cơ chế, thiết chế phù hợp
đảm bảo sự phân công rành mạch ba quyền và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ
quan thực hiện quyền lực. Thiếu những cái đó khó tránh khỏi tình trạng như đã và
đang diễn ra ở những mức độ nhất định: lấn quyền, lạm quyền, vượt thẩm quyền
hoặc bỏ sót quyền, chưa sử dụng hết quyền hạn của mình,…
Với nước ta, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất có chức năng lập pháp, có quyền quyết định các vấn đề trọng
đại của đất nước và có quyền giám sát tối cao hoạt động của các cơ quan nhà nước
khác. Trong hệ thống các cơ quan quyền lực của Nhà nước ta, Quốc hội có vị trí, vai
trò rất lớn theo luật định. Quốc hội “được làm” nhưng có “làm được” hay không - đó
là vấn đề không nhỏ. Điều đó liên quan trực tiếp tới thiết chế tổ chức và phương thức
hoạt động của Quốc hội. Ở nước ta, trong quá trình đổi mới, cải cách Nhà nước nói
chung, Quốc hội nói riêng, hiện cũng đang đặt ra một số vấn đề: Quốc hội ta là quốc
hội quốc dân hay quốc hội nhân dân; hoạt động thường xuyên hay định kỳ, Quốc hội
“tham luận” hay “tranh luận”, Quốc hội chuyên nghiệp hay nghiệp dư, tỷ lệ đại biểu
chuyên trách và đại biểu nghiệp dư, cơ cấu và chất lượng đại biểu; quan hệ giữa
Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác, v.v.. Xét về mặt lý thuyết, Quốc hội ta là
quốc hội quốc dân, đại biểu cho cử tri, cho nhân dân cả nước. Nhưng vì nhiều lý do
nên trên thực tế, điều đó chưa hẳn đã là như vậy. Chức năng đại diện của Quốc hội ta
vẫn thiên về đại biểu cho các địa phương, đại diện cho cử tri ở đơn vị bầu cử, chứ
chưa hẳn là cử tri cả nước. Điều này có liên quan đến tổ chức bầu cử (bầu cử gắn với
địa phương, và do vậy, cách giải quyết như thế nào vẫn là vấn đề cần phải tiếp tục
nghiên cứu. Quốc hội mang tính nghiệp dư hay tính chuyên nghiệp hoá? Xung quanh
vấn đề này hiện vẫn còn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, nếu Quốc
hội hoạt động thường xuyên, mang tính chuyên nghiệp hoá thì các đại biểu mất đi
mối liên hệ trực tiếp với cử tri, với cơ sở. Dĩ nhiên, Quốc hội hoạt động thường
xuyên, mang tính chuyên nghiệp hoá sẽ xuất hiện những trở ngại đó, nhưng không
phải không có cách giải quyết, khắc phục. Vả lại, theo kinh nghiệm của nhiều nước
cũng như yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, chỉ có Quốc hội hoạt động thường
xuyên mới hoàn thành được chức năng lập pháp, mới có đủ khả năng thay đổi, bổ
sung luật, đạo luật theo kịp với yêu cầu của cuộc sống. Đó là điều cần suy nghĩ.
Chuyên nghiệp hoá Quốc hội cũng là hướng cần thiết. Nghị sĩ quốc hội phải làm
chức năng đại biểu mà muốn vậy, phải có tài năng, khả năng và phải dành thời gian
để làm tròn nghĩa vụ và thạo nghề đại biểu. Đó là chưa nói đến chuyện họ phải là
những người lập pháp thành thạo, có chuyên môn sâu, hay ít nhất cũng phải có năng
lực thẩm định, phản biện, chất vấn. Vấn đề tỷ lệ đại biểu chuyên trách đã được đặt ra
trong những khoá gần đây (hiện nay tỷ lệ đó vào khoảng 30%). Đó là hướng đi đúng,
nhưng đủ chưa. Ở đây, còn phải tính đến tỷ lệ đại biểu được tái cử và không được tái
cử. Như vậy, chỉ xoay quanh việc cải cách Quốc hội theo hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền cũng đã làm xuất hiện nhiều vấn đề còn phải tiếp tục nghiên cứu, thử
nghiệm, thực hiện. Chính vì vậy mà cho đến nay, Đại hội X của Đảng vẫn khẳng
định: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội”(9).
2) Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Điều khác nhau căn bản với nhà nước pháp quyền tư sản là Nhà nước pháp quyền ở
nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hơn nữa, chế độ ta là chế độ một đảng. Nói chế
độ nhiều đảng dân chủ hơn chế độ một đảng là không chính xác, nhưng cũng phải
thấy rằng, trong chế độ một đảng, Đảng lãnh đạo như thế nào để đảm bảo dân chủ,
đảm bảo cho Nhà nước thực sự là quyền lực của nhân dân cũng là vấn đề phức tạp.
Đảng ta lãnh đạo Nhà nước không có mục đích nào khác hơn là đem lại quyền dân
chủ, quyền làm chủ cho nhân dân. Nhưng, lãnh đạo như thế nào để đạt được mục
đích đó là một bài toán không dễ. Thực tiễn trong hơn 20 năm đổi mới đã cho thấy
điều đó.
Không đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng thì quyền lực nhà nước sẽ bị biến dạng, biến
chất. Vả lại, trong thời đại hiện nay, có nhà nước nào lại không bị chi phối bởi một
đảng hay liên minh của một số đảng. Vì vậy, nếu không đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng thì sẽ xuất hiện một lực lượng chính trị nào đó chi phối quyền lực nhà nước.
Nhưng Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cách áp đặt, ra lệnh, bao biện làm thay công
việc của Nhà nước như trước đây thì quyền lực của nhân dân rất dễ rơi vào tình trạng
hình thức, Nhà nước sẽ trở nên thụ động, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Đó là
chưa nói đến bản thân chức năng lãnh đạo của Đảng cũng sẽ bị giảm sút và kém hiệu
quả. Hay, nói cách khác, sẽ làm suy yếu cả sự lãnh đạo của Đảng lẫn hiệu lực quản
lý của Nhà nước.
Do vậy, để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước một cách có hiệu quả,
Đảng phải tự đổi mới phương thức lãnh đạo của mình trên cơ sở giải quyết đúng đắn
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, phân định một cách khoa học, rõ ràng chức năng
của Đảng và của Nhà nước. Đây là vấn đề không đơn giản cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, tại Đại hội VI, Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước. Sau 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được một số
kết quả trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Chẳng hạn,
nếu trước đây, Quốc hội chủ yếu làm chức năng “hợp thức hoá” các văn kiện, nghị
quyết của Đảng thành quy phạm, mệnh lệnh của Nhà nước, thì hiện nay, Đảng đã
dành một không gian lớn hơn cho Quốc hội. Nhiều vấn đề, Đảng không cho quyết
định trước mà chỉ cho phương hướng để Quốc hội giải quyết, có những vấn đề Bộ
Chính trị cũng phải thay đổi khi Quốc hội có quyết định khác. Quốc hội càng ngày
càng có thực quyền hơn. Tuy nhiên, đến Đại hội X, Đảng vẫn cho rằng, “việc đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm, chưa đồng bộ với đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế”(10). Vì vậy, nhiệm vụ đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước vẫn được tiếp tục đặt ra. Nói về
nhiệm vụ đó, Văn kiện Đại hội X nhấn mạnh: “Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ
thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối
với Nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và từng cấp, từng
loại hình tổ chức nhà nước”(11).
3) Vấn đề tạo lập những điều kiện, cơ sở cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng những
điều kiện cho việc