Sự chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có rất nhiều vấn đề bức xúc cần phải giải quyết về mặt lý luận và thực tiễn, từ quản lý vĩ mô đến quản lý vi mô. Cứ mỗi bước tiến nên chúng ta lại gặp những vấn đề mới mẻ trong lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp, các tổ chức. Công tác quản lý tài chính hiện nay đòi hỏi mỗi doanh nghiệp trong quá trình tổ chức khi đạt đến một quy mô hoạt động nhất định, phải thiết lập và duy trì các bộ phận để kiểm tra, xác nhận và tư vấn cho quá trình quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế - tài chính trong doanh nghiệp, một trong các bộ phận thực hiện chức năng này là bộ phận Kiểm toán nội bộ. Mà để các hoạt động kiểm tra và tư vấn có hiệu quả thì công tác tổ chức Bộ máy Kiểm toán nội bộ là hết sức quan trọng mà đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
ở các cơ quan nhà nước tổ chức kinh tế nhà nước và các tổ chức khác có sử dụng ngân sách nhà nước cũng như ở các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước thì các đơn vị trên phải tổ chức Bộ máy Kiểm toán nội bộ và phải có hoạt động Kiểm toán nội bộ xuất phát từ lý do sau:
• Đối với các đơn vị thụ hưởng ngân sách Nhà nước – là đối tượng của hoạt động Kiểm toán nhà nước: vì phạm vi là đối tượng Kiểm toán nhà nước rất rộng, cho dù tổ chức kiểm toán nhà nước có phát triển đến đâucũng không thể thực hiện kiểm toán thường xuyên mọi đối tượng được. Vì vậy biện pháp khắc phục hữu hiệu được áp dụng phổ biến ở các nước là tổ chức hệ thống Kiểm toán nội bộ rộng rãi. ở nước ta, trong những năm trước đây cũng đã từng thực hiện chế độ kiểm tra kế toán nội bộ ngành, đơn vị mà thực chất cũng là hình thức Kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên trên thực tế bị buông lỏng và hầu như vô hiệu hoá. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra trong công cuộc đổi mới, đòi hỏi bức xúc phải tổ chức lại và đưa vào kỷ cương nền nếp hoạt động hệ thống Kiểm toán nội bộ.
• Đối với các doanh nghiệp: Kiểm toán nội bộ là công cụ quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp để kiểm soát, đánh giá phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá và điều chỉnh chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. Kiểm toán nội bộ cũng là công cụ để phân tích, đánh giá chất lượng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ đồng thời Kiểm toán nội bộ cũng cung cấp căn cứ để lãnh đạo doanh nghiệp điều hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chiếm lĩnh được thị trường.
Kiểm toán nội bộ là công cụ kiểm tra, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp ở từng bộ phận, ở tất cả các giai đoạn trước, trong và sau khi kinh doanh. Kiểm toán nội bộ làm công việc thường xuyên theo yêu cầu và chỉ đạo của lãnh đạo doanh nghiệp.
ở nước ta khả năng dự báo và phân tích các doanh nghiệp còn rất hạn chế, còn rất nhiều dáng dấp của thời kỳ quản lý bao cấp. Doanh nghiệp nhà nước muốn ỷ lại, dựa dẫm vào Nhà nước. Doanh nghiệp chưa có hệ thống phân tích chức năng, do đó việc tổ chức bộ phận Kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp là hết sức đúng đắn và cần thiết. Kiểm toán nội bộ là tai mắt cho doanh nghiệp. Mục đích của Kiểm toán nội bộ là tạo ra công cụ để phân tích toàn bộ hoạt động chiến lược, để rút kinh nghiệm trong quản lý và điều hành, đồng thời đề ra chiến lược phát triển của riêng bản thân doanh nghiệp.
NỘI DUNG CHÍNH:
PHần I: Giới thiệu về Kiểm toán nội bộ.
Phần II: Tổ chức bộ máy Kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước.
54 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 2540 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổ chức Bộ máy Kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nuớc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề.
Sự chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có rất nhiều vấn đề bức xúc cần phải giải quyết về mặt lý luận và thực tiễn, từ quản lý vĩ mô đến quản lý vi mô. Cứ mỗi bước tiến nên chúng ta lại gặp những vấn đề mới mẻ trong lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp, các tổ chức. Công tác quản lý tài chính hiện nay đòi hỏi mỗi doanh nghiệp trong quá trình tổ chức khi đạt đến một quy mô hoạt động nhất định, phải thiết lập và duy trì các bộ phận để kiểm tra, xác nhận và tư vấn cho quá trình quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế - tài chính trong doanh nghiệp, một trong các bộ phận thực hiện chức năng này là bộ phận Kiểm toán nội bộ. Mà để các hoạt động kiểm tra và tư vấn có hiệu quả thì công tác tổ chức Bộ máy Kiểm toán nội bộ là hết sức quan trọng mà đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy sau một thời gian tham khảo sách báo cùng một số tài liệu, và được sự hướng dẫn của thầy giáo phụ trách em đã chọn cho mình đề tài đó là: “Tổ chức Bộ máy Kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước”.
ở các cơ quan nhà nước tổ chức kinh tế nhà nước và các tổ chức khác có sử dụng ngân sách nhà nước cũng như ở các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước thì các đơn vị trên phải tổ chức Bộ máy Kiểm toán nội bộ và phải có hoạt động Kiểm toán nội bộ xuất phát từ lý do sau:
( Đối với các đơn vị thụ hưởng ngân sách Nhà nước – là đối tượng của hoạt động Kiểm toán nhà nước: vì phạm vi là đối tượng Kiểm toán nhà nước rất rộng, cho dù tổ chức kiểm toán nhà nước có phát triển đến đâucũng không thể thực hiện kiểm toán thường xuyên mọi đối tượng được. Vì vậy biện pháp khắc phục hữu hiệu được áp dụng phổ biến ở các nước là tổ chức hệ thống Kiểm toán nội bộ rộng rãi. ở nước ta, trong những năm trước đây cũng đã từng thực hiện chế độ kiểm tra kế toán nội bộ ngành, đơn vị mà thực chất cũng là hình thức Kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên trên thực tế bị buông lỏng và hầu như vô hiệu hoá. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra trong công cuộc đổi mới, đòi hỏi bức xúc phải tổ chức lại và đưa vào kỷ cương nền nếp hoạt động hệ thống Kiểm toán nội bộ.
( Đối với các doanh nghiệp: Kiểm toán nội bộ là công cụ quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp để kiểm soát, đánh giá phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá và điều chỉnh chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. Kiểm toán nội bộ cũng là công cụ để phân tích, đánh giá chất lượng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ đồng thời Kiểm toán nội bộ cũng cung cấp căn cứ để lãnh đạo doanh nghiệp điều hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chiếm lĩnh được thị trường.
Kiểm toán nội bộ là công cụ kiểm tra, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp ở từng bộ phận, ở tất cả các giai đoạn trước, trong và sau khi kinh doanh. Kiểm toán nội bộ làm công việc thường xuyên theo yêu cầu và chỉ đạo của lãnh đạo doanh nghiệp.
ở nước ta khả năng dự báo và phân tích các doanh nghiệp còn rất hạn chế, còn rất nhiều dáng dấp của thời kỳ quản lý bao cấp. Doanh nghiệp nhà nước muốn ỷ lại, dựa dẫm vào Nhà nước. Doanh nghiệp chưa có hệ thống phân tích chức năng, do đó việc tổ chức bộ phận Kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp là hết sức đúng đắn và cần thiết. Kiểm toán nội bộ là tai mắt cho doanh nghiệp. Mục đích của Kiểm toán nội bộ là tạo ra công cụ để phân tích toàn bộ hoạt động chiến lược, để rút kinh nghiệm trong quản lý và điều hành, đồng thời đề ra chiến lược phát triển của riêng bản thân doanh nghiệp.
Trong phần dưới đây của bài viết em xin trình bày cụ thể hơn về công tác tổ chức Bộ máy Kiểm toán nội bộ cũng như nêu nên những vấn đề đặt ra đối với Kiểm toán nội bộ ở Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trầnh Mạnh Dũng đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành đề tài này
II- Giải quyết vấn đề.
PHần I: Giới thiệu về Kiểm toán nội bộ.
1.Cơ sở lý luận chung về Kiểm toán nội bộ.
Trước hết trong phần viết này em xin đề cập một số lý luận tổng quan về Kiểm toán nội bộ.
Là hoạt động kiểm toán, Kiểm toán nội bộ mang những đặc thù chung về chức năng nhiệm vụ. Nhưng để phân biệt giữa loại hình Kiểm toán nội bộ với Kiểm toán nhà nước, Kiểm toán độc lập ta có thể dựa trên những định nghĩa riêng biệt và chức năng nhiệm vụ.
Trong các chuẩn mực hành nghề Kiểm toán nội bộ ban hành tháng 5/ 1978, có định nghĩa như sau: “ Kiểm toán nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó”. Để hiểu rõ được định nghĩa trên, ta có thể hiểu các thuật ngữ sau:
( “ Kiểm toán”, một mặt nó được coi là kiểm tra sự chính xác số học hay sự tồn tại của tài sản, mặt khác nó là việc thẩm tra sâu sắc và xác minh, với trình độ tổ chức cao hơn.
( “ Nội bộ”, để nói rõ ràng đó là công việc kiểm toán do tổ chức và nhân viên của tổ chức đó tiến hành. Như vậy là, công việc kiểm toán ở đây khác với công việc do kiểm toán viên công chứng bên ngoài thực hiện, hoặc do đối tác khác không thuộc tổ chức riêng nào thực hiện.
( “ Độc lập”, nói nên rằng công việc của kiểm toán không bị những ràng buộc có thể hạn chế khả năng phạm vi và hiệu qủa của việc thẩm tra, hoặc làm chậm trễ việc báo cáo những phát hiện và kết luận.
( “ Thẩm định”, khẳng định chủ đề đánh giá của kiểm toán viên nội bộ khi triển khai những kết luận.
( “ Được thiết lập”Xác nhận là tổ chức đã định rõ vai trò của Kiểm toán nội bộ.
( “Xem xét và đánh giá”, nói rõ vai trò hành động của Kiểm toán viên nội bộ, một là điều tra phát hiện sự việc, hai là nhận định và đánh giá.
( Cụm từ “ Hoạt động của tổ chức”khẳng định phạm vi quyền hạn rộng của công việc Kiểm toán nội bộ khi tác động đến tất cả hoạt động của tổ chức.
( Thuật ngữ “ Giúp đỡ” khẳng định sự giúp đỡ và hỗ trợ là kết quả cuối cùng của Kiểm toán nội bộ.
( Cụm từ “ Đối với tổ chức đó” khẳng dịnh toàn bộ phạm vi giúp đỡ cho cả tổ chức bao gồm toàn thể nhân viên, hội đồng giám đốc ( trong đó có uỷ ban Kiểm toán của hội đồng giám đốc) và các cổ đông của công ty.
Từ các thuật ngữ cũng như định nghĩa nêu trên ta có thể hiểu rõ bản chất của Kiểm toán nội bộ thì căn cứ chủ yếu là xem xét mối quan hệ giữa Kiểm toán nội bộ với các hoạt động khác cuả công ty. Trước hết là công việc của kiểm toán viên phải tách ra khỏi các nghiệp vụ hàng ngày của một công ty. Một kiểm định thực tế là nếu Kiểm toán nội bộ tạm ngừng một phần hay toàn bộ thì các nghiệp vụ bình thường của công ty cho đến lúc đó vẫn tiếp tục theo cách đang làm. Lý do của sự tách rời là rất thực tế. Trong phạm vi mà nhóm Kiểm toán nội bộ phải chịu trách nhiệm đối với những công việc hàng ngày – ví dụ như thông qua biến động tài sản… thì việc thẩm ra riêng hay thẩm tra bổ xung sẽ không còn nữa. Thay vào đó, hoạt động Kiểm toán nội bộ chỉ đơn giản là nhận trách nhiệm của kiểm toán thông thường hay của các nghiệp vụ khác. Có khi người quản lý thích giao những trách nhiệm về các nghiệp vụ cho Kiểm toán nội bộ, nhưng làm như vậy chính là việc hiểu sai về việc thẩm tra độc lập.
Mặt quan trọng thứ hai của mối quan hệ giữa Kiểm toán nội bộ với các hoạt động khác của công ty là: Kiểm toán viên nội bộ cũng là một nhân viên của công ty vì thế anh ta không thể lấn át vai trò và trách nhiệm của người khác. Cho nên người quản trị trực tuyến hay kiểm tra viên vẫn chịu trách nhiệm chính trong các nhiệm vụ của họ, chứ không thể đẩy trách nhiệm cho Kiểm toán nội bộ. Nói như vậy không có nghĩa là Kiểm toán nội bộ không có trách nhiện gì. Kiểm toán nội bộ có trách nhiệm làm công việc mà anh ta không thạo về mặt nghề nghiệp.
Điểm sau cũng là sự chồng chéo không tránh khỏi giữa vai trò của Kiểm toán nội bộ với những họat động khác của công ty. Về nguyên tắc nhân viên trong tổ chức được giao làm việc gì là phải cam kết việc đó có hiệu quả và góp phần vào sự thịnh vượng của công ty nói chung.
Bên cạnh đó chúng ta còn xét mối quan hệ giữa Kiểm toán nội bộ với hội đồng giám đốc.
Hội đồng giám đốc có vai trò tích cực hơn, chịu trách nhiệm nhiều hơn trong mối quan hệ quản lý liên hiệp công ty và các cổ đông. Với trách nhiệm tăng hêm đó, hội đồng giám đốc đã chọn cách làm là sáng lập mở rộng vai trò của uỷ ban kiểm toán thuộc hội đồng. Tuy vai trò chính thức của uỷ ban còn mới mẻ nhưng thường nó bao hàm tính toàn vẹn và trung thực của báo cáo tài chính tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ, và sự chu đáo của toàn bộ lỗ lực kiểm toán. Trong lỗ lực kiểm toán có mối quan hệ giữa kiểm toán viên độc lập bên ngoài và Kiểm toán nội bộ.
Mặc dù, thường có quy định là Kiểm toán nội bộ lập báo cáo và gửi cho ban giám đốc điều hành, hoặc gửi cho giám đốc tài chính nhưng thực ra Kiểm toán viên nội bộ cũng phải chuẩn bị nội dung báo cáo và giúp đỡ cho uỷ ban kiểm toán.
Ngoài ra, chúng ta còn tìm hiểu mối quan hệ giữa Kiểm toán nội bộ và kiểm toán viên bên ngoài.
Kiểm toán viên bên ngoài có trách nhiệm chủ yếuvới các bên ngoài tổ chức khách hàng, còn Kiểm toán viên nội bộ thì chịu trách nhiệm chủ yếu với tổ chức. Kiểm toán viên bên ngoài quan tâm đặc biệt đến sự đúng đắn của báo cáo tài chính, còn Kiểm toán nội bộ thì đặt mối quan tâm hàng đầu vào hiệu quả chung của các xí nghiệp và khả năng có lãi của công ty. Mặc dù hai nhóm kiểm toán khác nhau về nhiệm vụ chủ yếu nhưng vẫn có mối quan tâm chung làm cơ sở cho một sự kết hợp tác dụng rộng rãi. Cái chính là mối quan tâm chung xuất phát từ tình hình và sự đúng đắn của hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ, là một cơ sở quan trọng cho mỗi nhóm thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của nó.
2. Kiểm toán nội bộ là gì?
Định nghĩa nêu trên đã phần nào khái quát về Kiểm toán nội bộ nhưngtrong nền kinh tế thị trường, để giải quyết mâu thuẫn giữa yếu tố cạnh tranh của các hoạt động kinh tế với các mối quan hệ kinh tế xã - hội qua lại tất yếu của các pháp nhân hoặc thể nhân đã làm nảy sinh một nhu cầu khách quan là: Phải công khai các thông tin kinh tế tài chính và các thông tin đó phải đáng tin cậy, tức là phải có một lực lượng ngoài các mối quan hệ đó, có trình độ kỹ năng chuyên môn tiến hành thẩm định một cách độc lập khách quan nhằm đưa ra nhận xét về độ tin cậy của các thông tin công khai. Nhờ đó, các thể nhân hoặc các pháp nhân sẽ tin tưởng lẫn nhau và các mối quan hệ kinh tế tài chính sẽ xaỷ ra giữa các pháp nhân hoặc thể nhân đó với nhau làm thúc đẩy các quan hệ kinh tế phát triển. Trong phạm vi bài viết này do trình độ và thời gian có hạn nên em chỉ xin đề cập đến Kiểm toán nội bộ.
Trước hết khái niệm về Kiểm toán nội bộ có thể được hiểu như sau: “ Kiểm toán nội bộ là một hoạt động nội kiểm có tính độc lập trong các cơ quan, đơn vị kinh tế thực hiện với chức năng chính là kiểm tra đánh giá các hoạt động tài chính và phi tài chính nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động đó và góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý tại các đơn vị kinh tế cơ sở”.
Theo khái niệm ở trên thì những hoạt động chính của Kiểm toán nội bộ là kiểm toán tài chính, kiểm toán nghiệp vụ ( kiểm toán hoạt động), kiểm toán tuân thủ.
Mục đích, vai trò, vị trí, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nội bộ.
3.1 – Mục đích của Kiểm toán nội bộ.
(Thứ nhất: Đối với kiểm toán tài chính bao gồm việc đánh giá các hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ nhằm kiểm soát và bảo vệ tài sản và các nguồn lực khác của công ty; kiểm tra những thông tin tài chính và báo cáo tài chính của đơn vị. Điều tra đặc biệt, chẳng hạn như tiến hành đánh giá một số nghiệp vụ giao dịch nhất định.
(Thứ hai: Với Kiểm toán hoạt động thì các mục đích bao gồm đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu năng của các hoạt động gồm cả việc kiểm soát phi tài chính ( Kiểm soát kinh doanh ) của một đơn vị kinh doanh.
(Thứ ba: Kiểm toán tuân thủ có mục đích là: Xem xét việc tuân thủ các đạo luật, quy định và những yêu cầu, các chính sáchvà hướng dẫn quản lý và những quy định nội bộ khác.
3.2 – Vai trò, vị trí của Kiểm toán nội bộ.
Với sự lớn mạnh của các loại hình doanh nghiệp trong một vài thập niên gần đây, tầm quan trọng của Kiểm toán nội bộ cũng lớn mạnh một cách tương ứng làm cho nó trở thành yếu tố chính trong việc thiết lập chất lưọng kiểm tra nội bộ của doanh nghiệp và sự lớn mạnh đó đã đóng góp một cách đáng kể vào sự phát triển của ngành kiểm toán đương thời. Học viện Kiểm toán viên nội bộ (IIA) là cơ quan chuyên môn độc lập được thành lậph ở cả hai bờ ĐạI Tây Dương (Pháp và Mỹ) và được chia thành rất nhiều phân viện tại nhiều nước trên thế giới cũng phần nào nói lên nhu cầu bức xúccủa việc nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng và cấp chứng chỉ cho các Kiểm toán viên nội bộ (CIA).
Sự công nhận Kiểm toán nội bộ cũng được khẳng định ở các Kiểm toán viên độc lập: Họ thừa nhận Kiểm toán nội bộ là công cụ quản lý hiệu quả và là sự bổ xung cần thiết cho công việc ngoại kiểm nên luôn khuyến khích khách hàng của mình thiết lập hệ thống Kiểm toán nội bộ.
Trong hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nước, hệ thống Kiểm toán nội bộ trong các cơ quan hành chính sự nghiệp và các tổ chức kinh tế Nhà nướcgiữ vai trò hết sức quan trọng. Do loại hình chủ yếu là kiểm toán hoạt động và khác với kiểm toán nhà nước, Kiểm toán nội bộ được đặt tai các đơn vị cơ sở nên giúp sớm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi tiêu cực, gian lận trong quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế,tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, nhân lực, tiền vốn và hạn chế lãng phí, tham nhũng; nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý; hoàn thiện và đổi mới phong cáchlàm việc tại các cơ quan đơn vị.
Về mặt lý thuyết, Kiểm toán nội bộ là lực lượng độc lâp trong đơn vị được lập ra để kiểm tra và đánh giá những hoạt động của đơn vị và các thành viên khác trong đơn vị đó đã làm. Trong những đơn vị nhỏ, chức năng Kiểm toán nội bộ thuộc về một phần của vai trò quản lý và được người chủ sở hữu hoặc người quản lý trực tiếp thực hiện. Tuy nhiên các hoạt động cụ thể tại các đơn vị rất đa dạng và phức tạp hệ thống kiểm tra đã được thiết lập từ trước khó đem lại cho ông chủ và các nhà quản lý cấp cao cái nhìn quán xuyến đối với mọi hoạt động đã và đang diễn ra. Những quy tắc đã định ra có đực tuân thủ không? Tài sản có được bảo vệ nguyên vẹn không? Công nhân viên làm việc có hiệu năng không? Những quy tắc hiện hành có còn hiệu lực khi điêù kiện thay đổi không? Những câu trả lời này phải giao cho một người hoặc một số ngưòi chịu trách nhiệm kiểm tra và đánh giá các hoạt động, sau đó báo cáo lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý.
Kiểm toán nội bộ cũng như mọi hoạt động khác bắt đầu hình thành từ những nhu cầu nảy sinh xuất phát từ quản lý. Trong những yếu tố cụ thể quyết định sự ra đời tất yếu của hoạt động Kiểm toán nội bộ có thể kể đến:
Sự lớn mạnh về quy mô và độ phức tạp của các hoạt động kinh doanh
Sự chuyển đổi từ các hoạt động tập trung sang phân quyền hoặc phân cấp quản lý.
Yêu cầu của các ngân hàng và các định chế tài chính
Những nhược điểm của con người và các yếu tố không thuận lợi khác đặt ra yêu cầu khách quan thì cần phải có hệ thống kiểm tra nội bộ.
Nếu xét kỹ hơn, có thể nhận thấy Kiểm toán nội bộ được phát triển theo ba khía cạnh:
Sự phát triển của Kiểm toán nội bộ như một tổ chức: nó được đánh dấu bởi ba giai đoạn:
( ở giai đoạn đầu những chức năng Kiểm toán nội bộ đã được công nhận ở một vài nơi tuy còn rải rác và việc kiểm tra do bản thân chủ sở hữu hoặc người quản lý thực hiện.
( Sang giai đoạn tiếp theo các hoạt động kiểm toán và đánh giá đã được công nhận chính thức trong các tổ chức. Tuy vậy khái niệm hoặc tên gọi kiểm toán nội bộ chưa được sử dụng rộng rãi.
( Giai đoạn thứ ba nâng kiểm toán nội bộ lên thành một đơn vị độc lập dưới sự giám sát trực tiếp của người lãnh đạo tối cao để bảo đảm sự vững mạnh và tính độc lập.
( Sự phát triển của Kiểm toán nội bộ như một chức năng:
Trước đây Kiểm toán nội bộ hướng nhiều vào kế toán, nó chịu trách nhiệm về việc kiểm tra các hoạt động tài chính để đảm bảo năng lực cho kế toán. Ngày nay Kiểm toán nội bộ không chỉ giới hạn ở việc kiểm tra các hoạt động kế toán, tài chính và ngăn chặn, khám phá những hành vi gian lận mà còn kiểm tra đánh giá các hoạt động điều hành, các hoạt động phi tài chính khác.
( Sự phát triển của Kiểm toán nội bộ như một nghề:
Thật vậy, hoạt động Kiểm toán nội bộ đã đạt được địa vị của một nghề nghiệp vì thoả mãn được các điều kiện cần thiết:
( Một là, Hoật động Kiểm toán nội bộ đã được công nhận và chấp nhận ở nhiều tổ chức trong xã hội: Bộ máy Kiểm toán nội bộ được thiết lập do yêu cầu tự thân của các tổ chức và đơn vị do sự tác động ( tư vấn) của các kiểm toán viên độc lập.
( Hai là, hoạt động Kiểm toán nội bộ được điều hành bởi các nguyên tắc nghề nghiệp do viện Kiểm toán viên nội bộ – cơ quan chuyên môn có thẩm quyền soạn thảo và công bố.
( Ba là, hoạt động Kiểm toán nội bộ được chuẩn hoá về mặt chuyên môn qua các đợt thi tuyểnvà cấp chứng chỉ cho Kiểm toán viên nội bộ hàng năm tại các phân viện của nhiều quốc gia trên thế giới. Thêm vào đó một luật đạo đức đã được thông qua và sử dụng như chuẩn mực cư xử của Kiểm toán viên nội bộ trong phạm vi toàn cầu.
3.3- Nhiệm vụ của Kiểm toán nội bộ.
Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ, tài liệu, số liệu kế toán, việc chấp hành chế độ, thể lệ kế toán tài chính nhà nước.
Kiểm tra và xác nhận mức độ trung thực, hợp lý của các báo cáo quyết toán do kế toán và các bộ phận khác trong doanh nghiệp lập ra.
Kiểm tra xác nhận giá trị của vốn góp của doanh nghiệp và các đối tác tham gia liên doanh với doanh nghiệp. Kiểm tra xác nhận tính trung thực hợp lý, đầy đủ của số liệu kế toánvà báo cáo quyết toán của đơn vị liên doanh.
Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lý của các quy chế kiểm soát nội bộ trong đó có hệ thống kế toán. Giám sát hoạt động và tham gia hoàn thiện chúng.
Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lý của các quy chế Kiểm soát nội bộ đồng thời có kiến nghị hoàn thiện các quy chế này.
Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên Kiểm toán nội bộ có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ kế toán và cán bộ nghiệp vụ khác có liên quan, đề xuất các quyết định quản lý, xử lý về tài chính kế toán và các nội dung xử lý khác.
3.4 – Quyền hạn của Kiểm toán nội bộ.
Độc lập với các bộ phận khác trong doanh nghiệp độc lập về chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi khuôn khổ pháp luật và các chuẩn mực phương pháp nghiệp vụ chuyên môn.
Yêu cầu các bộ phận và các cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ kịp thời các tài liệu về kế toán, tài chính và các tài liệu khác có liên quan đến nội dung kiểm toán.
Đối chiếu xác minh các thông tin kinh tế có liên quan đến đối tượng kiểm toán ở trong và ngoài doanh nghiệp.
Có quyền kiến nghị với đối tượng được kiểm toán, có biện pháp sửa chữa sai phạm và các quyền ghi ý kiến của mình vào báo cáo kiểm toán.
Có quyền đề xuất với lãnh đạo doanh nghiệp những kiến nghị và biện pháp quản lý.
Chức năng của Kiểm toán nội bộ.
( Thẩm tra các thủ tục kiểm soát để xác định tính thích hợp và tính ưu việt của nó.
Mục đích của việc kiểm tra tính thích hợp của Kiểm toán nội bộ để khẳng định rằng, hệ thống Kiểm toán nội bộ vận hành đều đặn và có hiệu quả, đáp ứng mọi mục tiêu đã định trước. Việc thẩm tra sẽ phơi bầy mọi hành vi gian lận, không bình thường và gây lãng phí với bản chất lặp đi lặp lại nhằm ngăn chặn và giảm thiểu chúng.
( Kiểm tra tính trung thực và độ tin cậycủa thông tin. Kiểm toán nội bộ phải kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy không chỉ của bản thân các thông tin tài chính mà cả hoạt động và phương tiện được sử dụng để xác định, đo đạc phân loại và báo cáo các thông tin đó.Việc kiểm tra hệ thống thông tin này là cơ sở dể khẳng định các sổ sách và báo cáo tài chính chức đựng các thông tin chính xác kịp thời và hữu ích.
( Kiểm tra việc tuân thủ các chính sách các quy định , cáckế hoạch và các thủ tục hiện hành.
Các Kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hệ thống nhằm thiết lập xem có đảm bảo sự tuân thủ với các chính sách thủ tục , luật pháp và các quy định có thể tác động quan trọng tới mọi hoạt động của tổ chức.
( Kiểm tra các phương tiện bảo đảm cho tài sản.
Các Kiểm toán viên nội bộ cần phải kiểm tra các phương tiện được sử dụng để