Các nghiên cứu tâm lý cho thấy tâm trạng được sử dụng như thông tin, như một điểm nổi bật, như một động lực và là thước đo tiền tệ chung liên quan đến việc phán đoán và ra quyết định trong tình huống không chắc chắn (Peters & cộng sự, 2006). Trên thị trường chứng khoán (TTCK), giá cổ phiếu có tương quan đồng biến với tâm trạng của nhà đầu tư. Cụ thể, tỷ suất sinh lợi chứng khoán (TSSL) cao hơn có liên quan đến tâm trạng tốt hơn, ngược lại, tỷ suất sinh lợi chứng khoán sụt giảm có liên quan đến tâm trạng tiêu cực của nhà đầu tư (Shu, 2010). Thậm chí tâm trạng không liên quan đến chứng khoán như tâm trạng trước kỳ nghỉ (Ariel, 1990), yếu tố thời tiết (Saunders, 1993), kết quả bóng đá (Edmans & cộng sự, 2007), niềm tin về sự may rủi và chu kỳ âm lịch (Dowling & Lucey, 2005) có thể ảnh hưởng đến TSSL chứng khoán. Ủng hộ quan điểm này, lý thuyết triển vọng của Kahneman & Tversky (1979) cho rằng không thể xem nhẹ yếu tố tâm lý khi đưa ra quyết định trong tình huống không chắc chắn, bởi vì mức thỏa dụng không phải lúc nào cũng phản ánh thái độ thuần túy với tiền, mà có thể bị ảnh hưởng bởi tác động bổ sung (như tâm trạng) đối với một số tiền cụ thể. Các nghiên cứu trên cho thấy, các quyết định trên TTCK có thể bị ảnh hưởng bởi những tâm trạng không liên quan. Tuy nhiên, các nghiên cứu khai thác chủ đề này trên TTCK Việt Nam là rất ít, và điều này cũng thể hiện tính cấp thiết của luận án. Luận án phải làm rõ được ảnh hưởng nếu có của các yếu tố dường như không liên quan đến chứng khoán (như hiệu ứng kỳ nghỉ, thời tiết, lịch âm) đến tỷ suất sinh lợi của thị trường chứng khoán Việt Nam để từ đó đưa ra các khuyến nghị.
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Hiệu ứng kỳ nghỉ, thời tiết, lịch âm đến tỷ suất sinh lợi của thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
---------------------------
LẠI CAO MAI PHƯƠNG
HIỆU ỨNG KỲ NGHỈ, THỜI TIẾT, LỊCH ÂM
ĐẾN TỶ SUẤT SINH LỢI
CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên Ngành: Tài Chính – Ngân Hàng
Mã Số: 9 34 02 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
TP. HCM, NĂM 2019
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
Phản biện 1:
..
Phản biện 2:
..
Phản biện 3:
..
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
trường họp tại.
Vào ..giờ ngày..tháng .năm 201
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: ..
.
.
1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TÓM TẮT LUẬN ÁN
Tên luận án: Hiệu ứng kỳ nghỉ, thời tiết, lịch âm đến tỷ suất sinh lợi của thị trường chứng khoán
Việt Nam
Chuyên ngành: Tài chính- Ngân hàng Mã số: 93 40201
Nghiên cứu sinh: Lại Cao Mai Phương Khóa: NCS2012
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Thị Liên Hoa
Từ khóa: kỳ nghỉ, thời tiết, lịch âm, tâm trạng, tỷ suất sinh lợi, chứng khoán
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Tính cấp thiết của luận án
Các nghiên cứu tâm lý cho thấy tâm trạng được sử dụng như thông tin, như một điểm nổi bật, như một động
lực và là thước đo tiền tệ chung liên quan đến việc phán đoán và ra quyết định trong tình huống không chắc chắn
(Peters & cộng sự, 2006). Trên thị trường chứng khoán (TTCK), giá cổ phiếu có tương quan đồng biến với tâm trạng
của nhà đầu tư. Cụ thể, tỷ suất sinh lợi chứng khoán (TSSL) cao hơn có liên quan đến tâm trạng tốt hơn, ngược lại, tỷ
suất sinh lợi chứng khoán sụt giảm có liên quan đến tâm trạng tiêu cực của nhà đầu tư (Shu, 2010). Thậm chí tâm
trạng không liên quan đến chứng khoán như tâm trạng trước kỳ nghỉ (Ariel, 1990), yếu tố thời tiết (Saunders, 1993),
kết quả bóng đá (Edmans & cộng sự, 2007), niềm tin về sự may rủi và chu kỳ âm lịch (Dowling & Lucey, 2005) có
thể ảnh hưởng đến TSSL chứng khoán. Ủng hộ quan điểm này, lý thuyết triển vọng của Kahneman & Tversky (1979)
cho rằng không thể xem nhẹ yếu tố tâm lý khi đưa ra quyết định trong tình huống không chắc chắn, bởi vì mức thỏa
dụng không phải lúc nào cũng phản ánh thái độ thuần túy với tiền, mà có thể bị ảnh hưởng bởi tác động bổ sung (như
tâm trạng) đối với một số tiền cụ thể. Các nghiên cứu trên cho thấy, các quyết định trên TTCK có thể bị ảnh hưởng
bởi những tâm trạng không liên quan. Tuy nhiên, các nghiên cứu khai thác chủ đề này trên TTCK Việt Nam là rất ít,
và điều này cũng thể hiện tính cấp thiết của luận án. Luận án phải làm rõ được ảnh hưởng nếu có của các yếu tố
dường như không liên quan đến chứng khoán (như hiệu ứng kỳ nghỉ, thời tiết, lịch âm) đến tỷ suất sinh lợi của thị
trường chứng khoán Việt Nam để từ đó đưa ra các khuyến nghị.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Mục tiêu của luận án là nghiên cứu “Hiệu ứng kỳ nghỉ, thời tiết, lịch âm đến tỷ suất sinh lợi chứng khoán Việt
Nam” trên cơ sở tiếp liên kết lý thuyết tâm trạng của nhà đầu tư với quyết định đầu tư chứng khoán và đặc điểm liên
quan đến ba hiệu ứng này tại Việt Nam. Dựa vào ý nghĩa thực tiễn, khoảng trống nghiên cứu và những dữ liệu thu
thập được, tác giả tập trung giải quyết các mục tiêu cụ thể sau:
- Xác định sự tồn tại mối liên hệ của từng hiệu ứng (kỳ nghỉ, thời tiết, lịch âm) và TSSL vượt trội của TTCK Việt
Nam với toàn bộ dữ liệu 10 năm. Những yếu tố đại diện cho từng hiệu ứng này có ảnh hưởng đến TSSL của TTCK
Việt Nam hay không? Hướng tác động của các yếu tố này như thế nào- là thuận chiều hay ngược chiều? Những điểm
riêng của Việt Nam về mối quan hệ này với các nghiên cứu trước đây?
- Xác định sự tồn tại mối liên hệ của cả ba hiệu ứng kỳ nghỉ, thời tiết, lịch âm và TSSL của TTCK Việt Nam với toàn
bộ dữ liệu 10 năm và khi xu hướng ngắn hạn của từng chỉ số chứng khoán là tích cực/ tiêu cực. Khi kết hợp cả ba hiệu
ứng trong một mô hình tổng hợp, những yếu tố đại diện cho từng hiệu ứng này có tác động đến TSSL của TTCK Việt
Nam hay không? Mối liên hệ giữa các hiệu ứng này và TSSL theo ngành được nghiên cứu tại Việt Nam là như thế
nào?
Khi các mối liên hệ này được xác định, luận án đưa ra khuyến nghị cho các nhà đầu tư, gợi ý cho nhà phát hành và các
nhà quản lý tại Việt Nam nhằm hạn chế ảnh hưởng của tâm trạng gây ra bởi ba hiệu ứng có thể tác động đến TSSL
của TTCK Việt Nam.
CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1 Tâm trạng và các lý thuyết liên quan đến việc ra quyết định
2.1.1 Vai trò của tâm trạng đối với các quyết định trong tình huống không chắc chắn
Vai trò của tâm trạng trong việc ra quyết định là không nên bỏ qua. Để bảo vệ luận điểm này các nhà tâm lý học
(Loewenstein, Weber, Hsee, & Welch, 2001; Schwarz & Clore, 2003), kinh tế học (Elster, 1998; Loewenstein, 2000)
3
và thần kinh học (Trepel, Fox, & Poldrack, 2005) đã tích lũy nhiều bằng chứng cho thấy tâm trạng và thiên lệch nhận
thức tác động đến các quyết định khác nhau.
Tổng hợp các nghiên cứu tiêu biểu về tâm lý học, Peters & cộng sự (2006) đã rút ra bốn chức năng quan trọng của tâm
trạng (tâm trạng như thông tin, như một điểm nổi bật, như một động lực và là tiền tệ chung) liên quan đến việc phán
đoán và ra quyết định.
Năm 1990, Schwarz phát triển lý thuyết sử dụng tâm trạng như thông tin. Theo lý thuyết này, các cá nhân sử dụng
trạng thái cảm xúc hay tâm trạng của họ như thông tin khi lựa chọn các chiến lược xử lý trong hầu hết các quyết định
của họ (Schwarz, 1990; Bechara, Damasio, Tranel, & Damasio, 1997; Bechara & Damasio, 2005; Spinella, Yang, và
Lester, 2008). Khi tâm trạng đóng vai trò như thông tin, nó hướng dẫn quá trình phán đoán hoặc quyết định (Slovic &
cộng sự, 2002), người ra quyết định tham khảo cảm xúc của họ về những lựa chọn trước khi đưa ra quyết định
(Schwarz & Clore, 2003).
Mô hình rủi ro như cảm xúc được phát triển bởi Loewenstein & cộng sự (2001) đã hỗ trợ cho lý thuyết tâm trạng như
thông tin mà Schwarz (1990) đề xuất khi tâm trạng với vai trò là thước đo tiền tệ chung trong các quyết định. Mô hình
này được Loewenstein & cộng sự (2001) phát triển dựa trên một phân tích tổng hợp của hơn 500 nghiên cứu lâm sàng
và sinh lý về tâm trạng và cá nhân đưa ra quyết định, đã khẳng định rằng mọi khía cạnh của quá trình ra quyết định bị
ảnh hưởng bởi những trải nghiệm tâm trạng tại thời điểm đó của mỗi cá nhân, và những trải nghiệm này tại thời điểm
ra quyết định ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng của họ. Với vai trò là thước đo tiền tệ chung trong các quyết định,
tâm trạng cho phép người quyết định so sánh các lựa chọn khác nhau (Cabanac, 1992). Theo đó, thay vì cố gắng tìm
ra vô số lý do hợp lý, người quyết định chuyển những suy nghĩ duy lý phức tạp thành những đánh giá cảm xúc đơn
giản hơn để có thể so sánh cảm giác tốt và xấu với nhau (Montague và Berns, 2002), từ đó đưa ra quyết định. Nghiên
cứu của Loewenstein & cộng sự (2001) còn kết luận rằng các phản ứng của tâm trạng trước các tình huống rủi ro
thường mâu thuẫn với những đánh giá nhận thức về những rủi ro này. Khi mâu thuẫn như vậy xảy ra, tâm trạng đóng
một vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định có rủi ro. Hàm ý của Loewenstein & cộng sự (2001) là các nghiên
cứu tài chính nên đưa thông tin tâm trạng nhà đầu tư vào mô hình, trước khi ra quyết định kinh tế.
Khi tâm trạng đóng vai trò như một điểm nhấn trong một quá trình quyết định hai bước, Schwarz (1990) cho rằng con
người có xu hướng đưa ra quyết định tùy thuộc vào tâm trạng của họ, thậm chí tâm trạng ảnh hưởng đến các quyết
định không có liên quan đến nguyên nhân gây ra tâm trạng và sự ảnh hưởng theo cách này được gọi là quy kết sai tâm
trạng (misattribution). Theo đó, ở bước đầu tiên, mức độ (mạnh yếu) của cảm xúc hoặc loại cảm xúc ban đầu ảnh
hưởng đến thao tác khiến một số kiến thức được lưu trữ dễ tiếp cận hơn. Khi thông tin lưu trữ dễ tiếp cận hơn, nó có
tác động lớn hơn trong các ưu tiên tiếp theo. Dẫn tới, ở bước hai, khi thông tin mới (không phải tâm trạng ban đầu)
được sử dụng bị ảnh hưởng bởi tâm trạng trước đó hướng dẫn phán đoán hoặc ra quyết định (Nabi, 2003). Dẫn tới
thông tin mới (không phải tâm trạng ban đầu) được sử dụng sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm trạng trước đó hướng dẫn phán
đoán hoặc ra quyết định trong bước bước hai. (Nabi, 2003).
Tâm trạng có vai trò như động lực trong việc đưa ra quyết định được thể hiện rõ trong mô hình duy trì ảnh hưởng tâm
trạng (AIM) được đề xuất bởi Forgas (1995). Trong một nghiên cứu về tâm sinh lý được công bố vào năm 1987,
Forgas & Bowe đã đưa ra quan điểm về các ảnh hưởng của tâm trạng đối với sự hình thành ấn tượng và trí nhớ trong
não bộ của con người. Kết quả cho thấy cả hai bộ nhớ hồi tưởng và bộ nhớ nhận dạng trong não bộ đều hoạt động tốt
hơn khi các đặc điểm phù hợp về tâm trạng. Theo đó, các đối tượng dành nhiều thời gian hơn để học về các chi tiết
phù hợp với tâm trạng nhưng họ sẽ đưa ra các phán đoán phù hợp với tâm trạng nhanh hơn. Forgas & Bower (1987)
phát hiện ra các đối tượng trong trạng thái hạnh phúc tạo ra những ấn tượng tốt hơn và đưa ra những đánh giá tích cực
4
hơn so với tâm trạng buồn bã. Tâm trạng tích cực có ảnh hưởng rõ rệt hơn đối với các phán đoán và trí nhớ so với tâm
trạng tiêu cực. Kế thừa kết quả nghiên cứu của Forgas & Bower (1987), đến năm 1995, Forgas đề xuất mô hình duy
trì tâm trạng (AIM) nhằm giải thích một cách toàn diện nhất vai trò của tâm trạng trong quá trình đưa ra quyết định
của cá nhân ở khía cạnh tâm sinh lý học. Mô hình AIM của Forgas (1995) đề xuất cho rằng các đối tượng trong tâm
trạng xấu có cái nhìn bi quan hơn về thế giới, nhận thức của họ trong những tình huống rủi ro trở nên trầm trọng hơn
so với thực tế, do đó họ có xu hướng chọn quyết định an toàn. Nhưng trong một tâm trạng tích cực, các đối tượng
trong mô hình AIM sẽ thúc đẩy những hành vi dễ bị rủi ro bởi vì tâm trạng vui vẻ gợi lên những ký ức tích cực và dẫn
đến đánh giá môi trường tốt hơn (Forgas & Bower, 1987; Chou & cộng sự, 2007). Đồng quan điểm với Forgas &
Bower (1987), Wright & Bower (1992) khẳng định những người hạnh phúc có xu hướng lạc quan, ngược lại, những
người buồn có xu hướng bi quan và những tâm trạng này ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quyết định của họ. Chính vì
vậy, các nhà đầu tư với tâm trạng lạc quan mong chờ một thị trường tăng trưởng và họ gia tăng hoạt động mua vào,
người có tâm trạng lo lắng hoặc trầm cảm có xu hướng tránh rủi ro và rời khỏi thị trường (Wright & Bower, 1992).
Ngoài ra, trong những tình huống phức tạp và không lường trước được, những người gặp trạng thái cảm xúc vui vẻ có
thể phải dựa nhiều hơn vào quá trình xử lý thông tin theo phương pháp tự nghiệm, điều này có thể góp phần vào phản
ứng dễ bị rủi ro (Forgas, 1998; Leith & Baumeister, 1996). Các nghiên cứu khác ủng hộ mô hình AIM cũng tìm thấy
sự kết nối mạnh mẽ giữa tâm trạng và rủi ro giả định trong các nghiên cứu của Yuen & Lee (2003), Kamstra, Kramer,
& Levi (2003), Kuvaas & Kaufmann (2004).
Như vậy, tâm trạng có liên quan đến mức độ xử lý hệ thống và ra quyết định (Forgas, 2000), có liên quan đến xu
hướng quyết định là tiếp cận hay né tránh (Chen & Bargh, 1999), thúc đẩy quyết định khi họ có xu hướng nhằm duy
trì hoặc đạt được trạng thái tâm trạng tích cực (Isen, 2000).
2.1.2 Xác định xu thế ngắn hạn của chứng khoán dựa trên đường trung bình động
Lý thuyết Dow là lý thuyết nền tảng cho những nhà đầu tư sử dụng trường phái phân tích kỹ thuật để ra quyết định.
Sự dịch chuyển giá của thị trường chứng khoán theo xu thế thể hiện sự thay đổi thái độ của nhà đầu tư dựa trên những
thông tin tổng hợp (như kinh tế, chính trị) về cả giá hiện tại và tiềm năng là một trong những tiền đề của lý thuyết
Dow. Trong một thị trường thường có ba xu thế (Pring, 1980). Xu thế cấp một thể hiện xu hướng chung là tăng (giảm)
trong dài hạn của thị trường, thường kéo dài trên 9 tháng đến vài năm. Xu thế cấp hai thể hiện xu hướng trung gian
của thị trường, thường kéo dài trên 3 tuần đến 9 tháng, đây là giai đoạn ngắt quãng quá trình tăng hoặc giảm của xu
thế cấp một. Xu thế cấp ba thể hiện các biến động nhỏ của thị trường, thường kéo dài từ 1 đến 3 tuần.
So với các chỉ báo khác được sử dụng trong phân tích kỹ thuật để dự báo xu thế, chỉ báo đường trung bình động (MA)
thường được sử dụng phổ biến (Taylor & Allen, 1992) và hiệu quả (Neftci,1991, Brock & cộng sự, 1992; Sullivan &
cộng sự, 1999). Quy tắc dự báo xu thế của đường MA dựa trên sự giao cắt của MA ngắn hạn so với MA dài hạn. Tín
hiệu mua xảy ra khi đường MA ngắn hạn cắt đường MA dài hạn từ dưới lên, thể hiện cho tâm lý đầu tư hiện tại trên
thị trường đã chuyển sang hướng lạc quan quan hơn so với trước. Ngược lại, tín hiệu bán cổ phiếu xảy ra khi đường
MA ngắn hạn cắt đường MA dài hạn từ trên xuống, cho thấy tâm lý hiện tại đã chuyển sang hướng bi quan hơn so với
trước đó. Khung thời gian của đường MA có thể từ 5-13 ngày thể hiện cho xu thế cực ngắn, và từ 100-200 ngày biểu
thị cho một xu thế trung và dài hạn (Achelis, 2001, tr205). Dựa vào vị trí giao cắt của hai đường MA, Dowling &
Lucey (2005) xác định tâm trạng đầu tư dựa trên xu thế ngắn hạn của chứng khoán.
2.1.3 Lý thuyết khoảng trống và quan niệm của con người về sự may rủi trong cuộc sống
5
Lý thuyết khoảng trống của Malinowski (1954) là lý thuyết có ảnh hưởng nhất đóng vai trò giải thích sự xuất hiện của
niềm tin về sự may rủi; bản chất xã hội của loài người đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại và duy trì niềm tin
này (Henslin, 1967) và quá trình xử lý thông tin liên hệ đến niềm tin về sự may rủi được mô tả là vô thức (Jahoda,
1969, Jung, 1979).
Lý thuyết của Malinowski (1954) cho rằng niềm tin về sự may rủi có tác dụng lấp đầy khoảng trống của những điều
không biết hoặc những điều mà con người chưa thể giải thích logic về mặt khoa học được và do đó làm giảm tâm lý lo
lắng khi đối mặt với sự không chắc chắn. Đồng ý với quan điểm này, Scheibe & Sarbin (1965) cho rằng trong một số
sự kiện/tình huống có sự lặp lại mà con người chưa biết được bản chất của sự việc nhưng động lực mong muốn lý giải
để giảm sự lo lắng trong cộng đồng đủ mạnh, thì bằng cách nào đó họ sẽ tạo ra nó. Vì vậy, có thể các cá nhân đã chủ ý
bóp méo sự thật và suy luận logic để phù hợp với những niềm tin mê tín của họ (Cohen & cộng sự, 1959). Bởi vì các
hành động mê tín có chức năng xoa dịu cho những cá nhân tham gia bằng cách cung cấp một số cảm giác nâng đỡ tinh
thần và cảm giác kiểm soát. Giải thích nguyên nhân của niềm tin này là do sự phổ biến của lỗi nhận thức (Singer &
Benassi, 1981).
Bên cạnh đó, hành vi mê tín cũng có thể xảy ra độc lập với niềm tin vào hiệu quả của hành vi đó, nhằm đạt được cảm
giác kiểm soát (Rothbaum, Weisz & Snyder, 1982). Do đó, có thể coi kiểm soát là một động cơ tâm lý cơ bản và nhận
thức về sự kiểm soát có được từ kết hợp các kết cục tâm lý với thể chất tích cực (Case & cộng sự, 2004). Các nghiên
cứu khác ủng hộ quan điểm này cho thấy việc phát triển phản ứng mê tín xảy ra trong tình huống không chắc chắn
(Padgett & Jorgensen, 1982) thì các cá nhân dựa nhiều vào trọng số niềm tin mê tín khi nhu cầu kiểm soát của họ bị
đe dọa (Stavrova & Meckel, 2017). Ngay cả những cá nhân tin rằng các sự kiện không thể bị kiểm soát bằng các hành
động của họ, được gọi là hoài nghi hay nửa tin nửa ngờ thường hành xử phù hợp với niềm tin mê tín (Campbell,
1996), thậm chí một số lượng lớn người được hỏi cho biết sẽ cảm thấy không thoải mái nếu họ không tuân theo các
nghi lễ mê tín trong những tình huống mà họ cho rằng hành động đó là thích hợp (Abercrombie & cộng sự, 1970).
Wiseman & Watt (2004) cho rằng bất kỳ niềm tin mê tín trong xã hội đều được chia thành một trong hai loại là tích
cực và tiêu cực. Các quốc gia theo phong tục Á Đông cho rằng tháng 7 âm lịch là tháng xui xẻo, do đó, một số điều
kiêng kỵ không làm vào tháng 7 âm lịch như những việc mua sắm lớn, không chuyển nhà hay mua nhà mới (Pooja,
2016); không cưới hỏi (Lo, 2003); tránh sinh con hoặc tránh phẫu thuật (Huang & cộng sự, 1997; Lin và cộng sự,
2006), không đi du lịch đối với các du khách Châu Á, đặc biệt là từ Thái Lan và Trung Quốc (Rittichainuwat, 2011).
Hernandez & cộng sự (2008) phân loại niềm tin mê tín thành hai loại: chủ động và thụ động. Ảo tưởng kiểm soát
được định nghĩa là liên kết với vận may để chia sẻ sức mạnh của một lực lượng lớn hơn và áp dụng cho các hành vi
mê tín (Rothbaum & cộng sự, 1982). Theo đó, ảo tưởng kiểm soát thông qua việc thực hiện các hành vi với kỳ vọng
đem lại sự may mắn, dựa trên cách phân loại của Wiseman & Watt (2004) đó là niềm tin mê tín tích cực, và việc thực
hiện các hành vi này là biểu hiện của niềm tin mê tín thụ động. Bên cạnh đó, con người chủ động tránh hoặc trì hoãn
làm một số việc trong những thời điểm kiêng kỵ (thứ Sáu ngày 13 ở các quốc gia phương Tây và tháng cô hồn ở các
quốc gia phương Đông) để tránh những hậu quả xấu khi mà kết quả của nó nằm ngoài sự kiểm soát của họ có thể
mang lại. Theo cách phân loại của Hernandez & cộng sự (2008) thì đó là niềm tin mê tín chủ động. Từ đó có thể rút ra
kết luận, con người thường sử dụng niềm tin chủ động nhằm ngăn ngừa các kết quả xấu có thể xảy ra, và xu hướng
tìm kiếm vận may khi thực hiện những hành động mê tín thụ động.
2.1.4 Lý thuyết triển vọng
6
Cả hai giải Nobel kinh tế liên quan đến tài chính hành vi, được trao cho Giáo sư Daniel Kahneman- Đại học Princeton
vào năm 2002 và Giáo sư Richard Thaler- Đại học Chicago vào năm 2017, đều dựa trên nền tảng là lý thuyết thuyết
triển vọng- công trình nghiên cứu của Giáo sư Daniel Kahneman và Amos Tversky (mất năm 1996, trước thời điểm
trao giải Nobel kinh tế 2002) công bố đầu tiên vào năm 1979. (Kahneman & Tversky, 1979; Tversky & Kahneman,
1992).
Tài chính hành vi và lý thuyết triển vọng nhận thấy các giả định của tài chính truyền thống khiếm khuyết về mặt thực
nghiệm (Simon, 1987a, tr221; Barberis & Thaler, 2003; Altman, 2010). Tversky & Kahneman (1974) cho rằng lý
thuyết độ thỏa dụng kỳ vọng dựa trên xác suất chủ quan đi kèm với triển vọng được quyết định bởi con người duy lý.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy với cùng một sự kiện các cá nhân khác nhau với các điểm tham chiếu và tiêu chí không
giống nhau sẽ đưa ra các xác suất chủ quan là khác nhau. Bên cạnh đó, đối với các các lựa chọn có rủi ro, hàm thỏa
dụng phải “dành chỗ” cho các tình huống liên quan đến tâm lý, bởi vì hàm thỏa dụng của một cá nhân không phải lúc
nào cũng phản ánh thái độ "thuần túy" đối với tiền mà có thể bị ảnh hưởng bởi các hậu quả bổ sung liên quan đến số
tiền cụ thể (Kahneman &Tversky, 1979, tr278-279). Do đó, các khoản được (gain) và mất (losses) trong lý thuyết
triển vọng đem lại mức thỏa dụng lớn hơn so với sự giàu có đem lại (Benartzi & Thaler, 1995, tr79). Vì vậy, khi điểm
tham chiếu mâu thuẫn với các khoản được và mất thì đo lường dựa trên mức thỏa dụng trở thành một yếu tố quan
trọng. Điều này giải thích vì sao trong thực tế lý thuyết hữu dụng kỳ vọng dự báo thiếu chính xác hành vi lựa chọn
dưới điều kiện rủi ro và không chắc. Lý thuyết triển vọng đã khắc phục được hạn chế của lý thuyết độ thỏa dụng kỳ
vọng khi sử dụng hành vi trung bình mẫu trong nhiều nghiên cứu thực nghiệm từ đó khái quát nó thành cách hành xử
của cá nhân hay nhóm người khi đưa ra quyết định trong một thế giới không chắc chắn. Vì vậy, lý thuyết triển vọng
được đề xuất thay thế cho lý thuyết độ thỏa dụng kỳ vọng vì thực tế cho thấy lý thuyết triển vọng mô tả và dự báo
chính chính xác hơn hành vi lựa chọn dưới điều kiện rủi ro và không chắc chắn (Altman, 2010).
Kahneman (2003) cho rằng có 3 đặc điểm nhận thức trong lý thuyết triển vọng, cùng các cảm xúc ngắn hạn được coi
là những nhân tố quan trọng của hành vi lựa chọn khi đánh giá về những kết quả kinh tế. Ba đặc điểm trong lý thuyết
triển