Bàn chân khoèo bẩm sinh là một phức hợp các biến dạng phức tạp ở
vùng cổ chân và bàn chân theo không gian ba chiều gồm: biến dạng
thuổng và vẹo trong của nửa sau bàn chân, biến dạng khép ngửa của nửa
trước bàn chân và biến dạng lõm gan chân.
Với tần suất xấp xỉ 1/1000 trẻ sinh ra còn sống, bàn chân khoèo
(BCK) bẩm sinh vô căn là một trong những dị tật bẩm sinh phổ biến.
Nhiều nghiên cứu khoa học cơ bản, lâm sàng cũng như dịch tễ học
nhằm xác định bệnh nguyên và bệnh sinh của BCK để phòng ngừa dị tật
phổ biến này, nhưng đến hiện tại bệnh nguyên và bệnh sinh vẫn chưa
được biết. Đến nay, chưa có nghiên cứu dịch tễ học về BCK đối với
quần thể dân cư Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
27 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 1845 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu điều trị bàn chân khoèo bẩm sinh ở trẻ em theo phương pháp ponseti, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VÕ QUANG ĐÌNH NAM
NGHIÊN CỨU ĐIỀU TRỊ
BÀN CHÂN KHOÈO BẨM SINH Ở TRẺ EM
THEO PHƯƠNG PHÁP PONSETI
Chuyên ngành : Chấn thương chỉnh hình
Mã Số : 62720725
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015
Công trình được hoàn thành tại:
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. VÕ THÀNH PHỤNG
PGS. TS. LÊ TẤN SƠN
Phản biện 1:
PGS. TS. PHẠM ĐĂNG NINH
Học viện Quân Y
Phản biện 2:
PGS. TS. LÊ VĂN ĐOÀN
BV. TW Quân đội 108
Phản biện 3:
PGS. TS. NGUYỄN VĂN THẮNG
ĐHYD. TP. HCM
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường.
Tại: Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Vào lúc: 14 giờ 00 ngày 06 tháng 10 năm 2014.
Có thể tìm luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Khoa học Tổng hợp – TP. HCM
- Thư viện Đại học Y Dược – TP. HCM
1
GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Đặt vấn đề
Bàn chân khoèo bẩm sinh là một phức hợp các biến dạng phức tạp ở
vùng cổ chân và bàn chân theo không gian ba chiều gồm: biến dạng
thuổng và vẹo trong của nửa sau bàn chân, biến dạng khép ngửa của nửa
trước bàn chân và biến dạng lõm gan chân.
Với tần suất xấp xỉ 1/1000 trẻ sinh ra còn sống, bàn chân khoèo
(BCK) bẩm sinh vô căn là một trong những dị tật bẩm sinh phổ biến.
Nhiều nghiên cứu khoa học cơ bản, lâm sàng cũng như dịch tễ học
nhằm xác định bệnh nguyên và bệnh sinh của BCK để phòng ngừa dị tật
phổ biến này, nhưng đến hiện tại bệnh nguyên và bệnh sinh vẫn chưa
được biết. Đến nay, chưa có nghiên cứu dịch tễ học về BCK đối với
quần thể dân cư Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Ở thập niên 50 điều trị BCK bẩm sinh chủ yếu là nắn chỉnh bằng tay
và bó bột với các phương pháp của Kite J., Ponseti I. hoặc kéo giãn - nắn
chỉnh bằng tay và nẹp theo Bensahel H., Seringe R.. Tuy vậy, một số
bệnh nhân (BN) đã không đạt được nắn chỉnh hoàn toàn biến dạng với
điều trị bảo tồn nên sự quan tâm đến điều trị phẫu thuật gia tăng trong
những thập niên sau đó. Cùng với thời gian, những biến chứng của phẫu
thuật như tái phát, chỉnh sửa quá mức, cứng và đau đã được ghi nhận. Vì
vậy, gần đây xu hướng nắn chỉnh bằng tay và bó bột đang trở lại, đặc
biệt là phương pháp Ponseti Nhiều công trình cho thấy kết quả nắn chỉnh
ban đầu thành công của phương pháp Ponseti I rất cao 92-98%, với sự
duy trì chức năng và không đau ở bàn chân của phương pháp Ponseti đã
được minh chứng trong một công trình theo dõi 35 năm.
Tại Việt Nam, điều trị bảo tồn BCK với nắn chỉnh bằng tay – bó bột
hoặc kéo giãn - nắn chỉnh bằng tay – băng dính và nẹp tùy theo điều
kiện mỗi nơi nhưng rất nhiều trường hợp bị bỏ quên hoặc điều trị không
đúng, khi lớn lên thì phải phẫu thuật. Kết quả của phương pháp điều trị
bảo tồn vẫn còn nhiều BCK cần chuyển sang phẫu thuật 10-33,7%. Hơn
nữa, các công trình theo dõi ngắn cho thấy tỉ lệ tái phát sau phẫu thuật
khá cao 8-19%. Mặc dù phương pháp Ponseti đang áp dụng khá phổ
biến tại Việt Nam, nhưng chưa có công trình báo cáo chi tiết kết quả nắn
chỉnh ban đầu cũng như kết quả xa. Bên cạnh đó, nếu tìm được các đặc
điểm của mẹ và trẻ liên quan đến BCK bẩm sinh vô căn sẽ là những gợi
ý chỉ điểm cho các nhân viên y tế thăm khám kỹ ngay từ đầu giúp cho
việc chẩn đoán sớm và điều trị hiệu quả.
2
Do vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu là:
Khảo sát các đặc điểm của mẹ và trẻ liên quan BCK bẩm sinh vô căn.
Đánh giá kết quả điều trị BCK bẩm sinh vô căn ở trẻ em theo phương
pháp Ponseti
2. Tính cấp thiết của đề tài
Nếu không điều trị sớm và hiệu quả, BCK cản trở quá trình phát
triển dáng đi bình thường, dẫn đến tàn tật suốt đời. Hơn nữa, nhiều trẻ
vẫn phẫu thuật và có thể để lại di chứng. Trong lúc các công trình
nghiên cứu về dịch tễ học, điều trị BCK theo phương pháp Ponseti chưa
có tại Việt Nam, đề tài này mang tính cần thiết, thời sự, có ý nghĩa khoa
học và thực tiễn.
3. Những đóng góp mới của luận án
Luận án cho thấy ngoài đặc điểm thường gặp ở trẻ trai thì sanh ngôi
mông và vùng dân cư là những đặc điểm khác của BCK bẩm sinh vố căn
tại miền Nam.
Nghiên cứu đầu tiên đánh giá kết quả sớm (nắn chỉnh ban đầu) và
kết quả trung hạn (theo dõi tối thiểu 2 năm) của phương pháp Ponseti tại
Việt Nam.
Luận án đóng góp cách áp dụng phương pháp Ponseti phù hợp điều
kiện Việt Nam, đánh giá mức độ nặng, kết quả nắn chỉnh ban đầu và tái
phát theo phân loại Diméglio, xác định các yếu tố nguy cơ tái phát giúp
các đồng nghiệp trong nước có thể điều trị BCK bằng phương pháp
Ponseti hiệu quả hơn.
4. Bố cục luận án
Gồm 119 trang: đặt vấn đề 2 trang, tổng quan 38 trang, đối tượng và
phương pháp nghiên cứu 17 trang, kết quả nghiên cứu 30 trang, bàn luận
29 trang, kết luận và kiến nghị 3 trang; 32 hình, 39 bảng, và 123 tài liệu
tham khảo (15 tiếng Việt, 102 tiếng Anh, 6 tiếng Pháp).
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Những đặc điểm chung về bàn chân khoèo
1.1.1. Tần suất
Có sự khác biệt về tần suất giữa các nhóm chủng tộc và dân tộc, với
tần suất 6,8/1000 ở Quần đảo Pô-li-nê-đi, 1,12/1000 ở người da trắng,
0,76/1000 ở người gốc Tây Ban Nha, 0,5/1000 ở người Nhật Bản và
0,39 ở người Trung Quốc.
3
1.1.2. Các yếu tố nguy cơ ở trẻ
1.1.2.1. Trẻ trai: nhiều hơn hẳn ở trẻ trai so với trẻ gái hằng định trong
nhiều nghiên cứu.
1.1.2.2. Sanh non: theo Parker S., sanh non liên quan chặt chẽ với BCK.
Tuy nhiên sanh non không phải hằng định.
1.1.2.3. Sanh ngôi mông: liên quan chặt chẽ với BCK theo Parker S., và
có xu hướng tăng theo Lochmiller; nhưng theo Kancherla V., sanh ngôi
mông cho thấy tỉ số số chênh (TSSC) giảm.
1.1.2.4. Trọng lượng thai thấp: liên quan chặt chẽ với BCK theo Parker
S., nhưng không xác định mối liên quan theo nhiều nghiên cứu.
1.1.3. Các yếu tố nguy cơ ở mẹ
1.1.3.1. Mẹ hút thuốc trong lúc mang thai: liên quan với BCK hằng định
trong nhiều nghiên cứu.
1.1.3.2. Tuổi mẹ: theo Parker S., tuổi mẹ trẻ liên quan với nguy cơ BCK
giảm với phân tích điều chỉnh, trong khi đó nguy cơ tăng trong phân tích
đơn biến.
1.1.3.3. Trình độ học vấn: liên quan với BCK trong một số nghiên cứu.
1.1.3.4. Số lần sanh: cũng liên quan với BCK ở một số nghiên cứu. Tuy
nhiên, có nhiều nghiên cứu cho thấy không có sự liên quan giữa tuổi mẹ,
trình độ học vấn, và số lần sanh với BCK.
1.1.3.5. Tiểu đường: theo Parker S., mẹ tiểu đường liên quan có ý nghĩa
với BCK. BCK tăng 2 lần ở mẹ có tiểu đường trước khi mang thai, trong
khi nguy cơ BCK liên quan với mẹ bị tiểu đường trong lúc mang thai là
khá khiêm tốn (TSSC=1,40; KTC95%=1,13-1,72). Nhưng Kancherla V.
lại cho rằng không có sự liên quan giữa tiểu đường với BCK.
Các yếu tố khác không có sự liên quan với BCK ở nhiều nghiên cứu
như tình trạng hôn nhân, mùa sanh nở; hơn nữa, các nghiên cứu không
xác định được yếu tố nguy cơ ở cha.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về BCK chủ yếu dựa vào bệnh viện
và chưa có nghiên cứu về dịch tễ học. Theo số liệu chưa được công bố
tại bệnh viện Từ Dũ năm 2010, tần suất BCK bẩm sinh vô căn là 0,1%.
Năm 2012, Nguyen MC. và cộng sự [80] thực hiện một nghiên cứu
bệnh chứng về các yếu tố nguy cơ BCK tại Miền Nam Việt Nam với
nhóm bệnh gồm 99 trẻ BCK bẩm sinh vô căn và nhóm chứng gồm 97 trẻ
từ 0-18 tuổi không mắc phải bất cứ dị tật bẩm sinh nào. Các tác giả đã
cho thấy nguy cơ BCK tăng cao có ý nghĩa ở mẹ trẻ < 25 tuổi (p=0,026)
và sinh ngôi mông (p=0,033). Đây cũng là nghiên cứu dựa vào bệnh
viện với nhóm chứng và bệnh khá ít.
4
Tóm lại, những nghiên cứu dựa vào dân số với số liệu điện tử chứng
sanh cho thấy đánh giá yếu tố nguy cơ và tần suất hằng định hơn là
những nghiên cứu trong bệnh viện. Các yếu tố nguy cơ hằng định trong
nhiều nghiên cứu là trẻ trai, mẹ hút thuốc trong lúc mang thai. Tuy
nhiên, tần suất thay đổi tùy theo điều kiện địa lý, chủng tộc và dân tộc.
1.2. Giải phẫu bệnh
Giải phẫu BCK đã được Scarpa A. mô tả chi tiết vào năm 1803. Tác
giả nhấn mạnh di lệch vào trong và lật trong của xương ghe, xương hộp
và xương gót so với xương sên.
Đến năm 1866, Adams W. đã mô tả những đặc điểm của BCK và
kết luận rằng bất thường cốt yếu nằm ở sự lệch hướng vào trong và mặt
lòng của cổ và đầu xương sên, đây là hệ quả của việc thích nghi với vị
trí thay đổi của xương gót và xương ghe.
Từ đây, có nhiều công trình nghiên cứu về giải phẫu BCK và đáng
tin cậy là những nghiên cứu ở thai chết lưu hoặc sơ sinh chết.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc giải phẫu bệnh
nhưng với những kỹ thuật hóa miễn dịch tinh vi hiện nay, chúng ta đang
từng bước hiểu rõ hơn trong nghiên cứu cấu trúc BCK. Những cấu trúc
hằng định của BCK là giảm kích thước nửa sau bàn chân với nhân sinh
xương và nguyên bào sụn của nửa sau bàn chân nhỏ hơn bình thường,
loạn sản động mạch (đặc biệt động mạch chày trước) qua chụp mạch
máu, rối loạn cấu trúc cơ, và xơ hóa mặt trong bàn chân.
1.3. Bệnh sinh
Mặc dù bệnh nguyên chưa được biết, những thuyết bệnh sinh như
thuyết khiếm khuyết chất nguyên sinh mầm nguyên phát theo Irani R. và
Sherman M., thuyết thần kinh theo Issac H., thuyết mô sợi theo Ippolio
E. và Ponseti I. là cơ sở khoa học trong việc điều trị BCK.
1.4. Phân loại bàn chân khoèo ở trẻ em
BCK bẩm sinh có thể phối hợp với rối loạn thần kinh cơ hoặc các
hội chứng toàn thân như thoát vị tủy-màng tủy, cứng đa khớp bẩm sinh,
nhưng phần lớn là vô căn. Phân loại mức độ trầm trọng và độ cứng của
BCK mang tính quyết định trong việc tiên lượng điều trị, cũng như đánh
giá các phương pháp điều trị khác nhau.
1.4.1. Phân loại Ponseti và Smoley
Phân loại đánh giá kết quả sau nắn chỉnh dựa vào gập lưng cổ chân,
vẹo trong gót, khép bàn chân trước và xoắn xương chày. Mỗi biến dạng
được phân cấp như tốt, chấp nhận hoặc xấu.
5
1.4.2. Phân loại Harrold và Walker
Phân loại dựa vào khả năng nắn chỉnh biến dạng. Mức độ biến dạng
được xác định bởi bàn chân có được giữ ở vị trí ít nhất là trung tính (độ
1), hoặc gập lòng, vẹo trong 200 (độ 3).
1.4.3. Phân loại Catterall
Phân loại dựa vào diễn tiến của biến dạng được phân cấp như cải
thiện, co rút gân, co rút khớp hoặc nắn chỉnh sai. Nhiều đặc điểm lâm
sàng được sử dụng cho phân loại này.
1.4.4. Phân loại Diméglio
Phân loại đánh giá các thành phần của biến dạng: thuổng, vẹo trong,
xoay trong và khép được lượng giá từ 0 đến 4 điểm; lõm, nếp gấp sau,
nếp gấp trong và sức cơ được tính 1 điểm. Điểm tổng cộng được phân
thành Độ I (nhẹ) < 5 điểm, Độ II (vừa) < 10 điểm, Độ III (nặng) < 15
điểm, Độ IV (rất nặng) ≥ 15 điểm.
1.4.5. Phân loại Pirani
Phân loại dựa vào 6 biến dạng lâm sàng bao gồm: nửa trước bàn
chân với bờ cong ngoài, nếp gấp trong, độ bao phủ đầu xương sên; nửa
sau bàn chân với nếp gấp sau, thuổng, độ sờ thấy gót. Mỗi biến dạng
được phân thành 3 mức độ: bình thường (0 điểm), vừa (0,5 điểm), nặng
(1 điểm).
1.4.6. Phân loại theo Richards B. và cộng sự
Phân loại được các tác giả dùng để đánh giá kết quả điều trị:
Tốt: bàn chân bằng sau khi cắt gân gót qua da (hoặc không cần
cắt gân gót).
Trung bình: bàn chân bằng sau khi (hoặc cần phải) được giải
phóng phần mềm phía sau, chuyển gân chày trước, cắt ngắn cột
ngoài hoặc phối hợp.
Xấu: bàn chân bằng sau khi (hoặc cần phải) được giải phóng phần
mềm phía sau-trong.
Mặc dù có nhiều hệ thống phân loại được đưa ra, phân loại
Diméglio và Pirani được sử dụng phổ biến nhất.
1.5. Điều trị bàn chân khoèo ở trẻ em
1.5.1. Điều trị bảo tồn
1.5.1.1. Phương pháp Vật lý trị liệu
Phương pháp vật lý trị liệu (VLTL) được triển khai vào những năm
1970 bởi Masse P., Bensahel H. và cộng sự. Phương pháp bao gồm nắn
chỉnh bàn chân hằng ngày, kích thích cơ quanh bàn chân (đặc biệt là các
cơ mác), và bất động tạm thời bàn chân với băng dính đàn hồi.
6
1.5.1.2. Phương pháp nắn chỉnh bằng tay và bó bột
Các phương pháp nắn chỉnh bằng tay và bó bột được áp dụng phổ
biến là phương pháp Kite và phương pháp Ponseti.
Sud A.và cộng sự so sánh tỉ lệ nắn chỉnh ban đầu giữa 2 phương
pháp Ponseti và Kite bằng nghiên cứu tiền cứu ngẫu nhiên; phương pháp
Ponseti có tỉ lệ nắn chỉnh ban đầu là 91,7% khi so sánh với 66,7%; số
lần bột ít hơn và thời gian nắn chỉnh ngắn hơn có ý nghĩa thống kê đối
với phương pháp Ponseti Với phân tích tổng hợp y văn so sánh phương
pháp Ponseti và phương pháp Kite từ năm 1986 đến 2006, Matos M. và
cộng sự đã cho thấy phương pháp Ponseti ưu việt hơn mặc dù các nghiên
cứu có những hạn chế về phương pháp như cỡ mẫu nhỏ, nhóm chứng
không tương đồng.
Richards B. và cộng sự tại Dallas so sánh phương pháp Ponseti và
phương pháp VLTL. Tỉ lệ nắn chỉnh ban đầu là 94,4% với phương pháp
Ponseti và 95% với phương pháp VLTL. Tái phát ở 37% BCK được
điều trị với phương pháp Ponseti với 1/3 cải thiện với bó bột thêm,
nhưng phần còn lại cần phẫu thuật. Tái phát ở 29% BCK được điều trị
thành công với phương pháp VLTL và tất cả cần can thiệp phẫu thuật.
Với thời gian theo dõi trung bình là 4,3 năm, phương pháp Ponseti cho
kết quả tốt 72%, trung bình 12% và xấu 16%, phương pháp vật lý trị liệu
cho kết quả tốt 67%, trung bình 17% và xấu 16%. Các tác giả cho rằng,
mặc dù có xu hướng kết quả tốt hơn với phương pháp Ponsetinhưng sự
khác biệt không có ý nghĩa.
Tại Việt Nam, điều trị bảo tồn BCK chủ yếu là phương pháp VLTL
trước khi phương pháp Ponseti được biết đến. Phương pháp VLTL
không rập khuôn do đứa trẻ không có điều kiện được nắn chỉnh hằng
ngày; thường phối hợp cả bài tập kéo giãn, kích thích cơ, băng dính, nẹp
bột hoặc bó bột và nẹp chỉnh hình ban đêm. Tỉ lệ chuyển sang phẫu
thuật khá cao như 37% ở 53 BN của L.C.Thắng (1984), 10% ở 166 BN
của T.T.T.Hà (1998), 12% ở 17 BN của T.Q.Khánh (1997), và 21,6-
32,5% trong số 210 BCK ở 137 BN của Đ.T.K.Hương (2001).
Phần lớn các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về điều trị
bảo tồn BCK đã cho thấy tỉ lệ BCK cần chuyển sang phẫu thuật khá cao
với phương pháp VLTL, và cũng cho thấy phương pháp Ponseti có kết
quả tốt hơn phương pháp Kite.
1.5.2. Điều trị phẫu thuật
Dietz D. tổng kết 14 nghiên cứu loạt ca điều trị phẫu thuật về tỉ lệ
tái phát cần phải phẫu thuật thêm. Thời gian theo dõi từ 2 đến 16 năm.
7
Số bàn chân được điều trị từ 16-271. Kết quả cho thấy tỉ lệ BCK cần
phẫu thuật thêm nữa từ 0-68%, trung bình 24%.
Thompson G. đánh giá 3 nhóm BCK được phẫu thuật trong số 244
BCK với 27% theo dõi hơn 10 năm, 73% theo dõi dưới 10 năm. 112
BCK nhóm phẫu thuật giải phóng giới hạn (à la carte) có 74% cần phẫu
thuật thêm và 8% bó bột lại. 39 BCK nhóm phẫu thuật giải phóng phần
mềm mặt sau-trong do phẫu thuật giải phóng không hoàn toàn trước đó
có 10% cần phẫu thuật thêm nữa và 28% cần bó bột lại. Nhóm 93
BCKphẫu thuật từ đầu giải phóng mặt sau-trong có 9% phẫu thuật lại và
11% bó bột lại.
Tại Việt Nam, điều trị phẫu thuật BCK ở trẻ em được áp dụng nhiều
trước đây do không chẩn đoán sớm, bị bỏ quên, điều trị bảo tồn sớm
chưa theo bài bản, và tái phát cao do không được theo dõi đúng mức.
Các báo cáo phẫu thuật BCK ở trẻ em tại Việt Nam như của N.V.Thanh
(1985), B.C.Hoành (1995), N.N.Hưng và cộng sự (1997) cho kết quả
xấu khá cao 8-19%. Năm 2012, N.N.Hưng cũng đã báo cáo kết quả phẫu
thuật ở 448 BCK dưới 24 tháng tuổi chưa được điều trị hoặc thất bại với
điều trị bảo tồn; nhóm 1 gồm 268 BCK chỉ phẫu thuật giải phóng phần
mềm chọn lọc được theo dõi trung bình 15 năm 7 tháng, nhóm 2 gồm
180 BCK phẫu thuật giải phóng phần mềm chọn lọc kết hợp nạo xốp
xương hộp được theo dõi trung bình 6 năm 4 tháng; tác giả kết luận
nhóm 2 cho kết quả tốt và rất tốt là 92,8%, vượt trội so với nhóm 1. Đây
là báo cáo đầu tiên có thời gian theo dõi lâu dài tại Việt Nam.
Gần đây, dựa trên nguyên lý Ilizarov, một số nhà khoa học trên thế
giới và trong nước đã sáng chế ra những bộ khung cố định ngoài để điều
trị BCK ở trẻ lớn. Nhiều công trình được báo cáo trong nước như N.
T.Dần năm 1995, L.Đ.Tố năm 2001, N.V.Hỷ năm 2008, và N.T.Hiếu
năm 2009. Nhìn chung, các tác giả này có khuynh hướng áp dụng
phương pháp nắn chỉnh từ từ theo nguyên lý Ilizarov kết hợp với can
thiệp phần mềm, thậm chí cả can thiệp phần xương để điều trị BCK biến
dạng nặng.
Với dữ liệu và những nghiên cứu hiện nay, sự so sánh giữa các
phương pháp phẫu thuật khác nhau là không thể. Hơn nữa, các bằng
chứng theo dõi lâu dài còn hạn chế nhưng đã cho thấy các phương pháp
ít xâm nhập kết quả lâu dài tốt hơn.
1.5.3. Phương pháp Ponseti
Vào đầu những năm 1940, Ponseti I. đã triển khai 1 phương pháp
bảo tồn điều trị BCK. Phẫu tích BCK ở thai chết lưu đã cho phép tác giả
8
có thể xác định giải phẫu bệnh phù hợp và duy lý hóa cơ chế nắn chỉnh.
Thêm vào đó, các nghiên cứu về sinh học của collagen là nền tảng cũng
cố phương pháp nắn chỉnh dần dần; với nắn chỉnh bằng tay và bó bột
hằng tuần để duy trì nắn chỉnh đã cho phép thành phần collagen được
thư giãn và tái tạo bề mặt khớp mà không bị xơ hóa và sẹo.
Morcuende J. cho thấy kết quả nắn chỉnh ban đầu 98% ở 256 BCK
được điều trị bởi Ponseti I. và các đồng nghiệp tại Iowa. Khi theo dõi
trung bình 26 tháng, 11% tái phát với 2% cần cắt gân gót lần 2 và 2,5%
cần chuyển gân chày trước. Tác giả ghi nhận chỉ 6/140 BN (4%) tuân
thủ chương trình nẹp bị tái phát, trong khi có đến 15/17 BN (89%)
không tuân thủ chương trình nẹp bị tái phát.
Tại Việt Nam, phương pháp Ponseti lần đầu tiên được báo cáo kết
quả vào năm 2007 qua luận án chuyên khoa II của chính tác giả luận án
này. Năm 2008, Evans A. giới thiệu việc áp dụng phương pháp Ponseti
30 BN với 49 BCK vô căn và bệnh lý trong 6 tháng của L.T.H. Nhi tại
bệnh viện Từ Dũ. Năm 2009, B.V.Đức đã trích dẫn báo cáo của
N.B.M.Phước về kết quả điều trị BCK theo phương pháp Ponseti ở 15
BN với 26 BCK vô căn tại bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai được theo dõi
4-14 tháng. Kết quả đạt 24/26 BCK (92,3%). Cắt gân gót 7/26 BCK
(27%). Vì thời gian theo dõi ngắn nên các tác giả chưa đánh giá được tỉ
lệ tái phát trong giai đoạn mang nẹp sau nắn chỉnh ban đầu.
Tóm lại, mặc dù có ít nghiên cứu chứng cứ mức độ cao, nhiều
nghiên cứu cho thấy phương pháp Ponseti là phương pháp hiệu quả và
nhanh chóng trong nắn chỉnh BCK bẩm sinh; xử trí tái phát trong
phương pháp Ponseti ít xâm nhập bằng cách bó bột lại hoặc chuyển gân
chày trước nếu so sánh với phẫu thuật giải phóng lại các khớp, đục
xương sửa trục, và hàn khớp.
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ năm 2004 đến 2012, các trẻ bị BCK bẩm sinh có năm sinh từ
2003 trở về sau được thu thập số liệu tại Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh
Hình Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong nghiên cứu khảo sát các đặc điểm của mẹ và trẻ, nhóm bệnh
nghiên cứu gồm 233 trẻ BCK bẩm sinh vô căn. Nhóm chứng gồm 232
trẻ không có bệnh lý bẩm sinh, có năm sinh từ 2003 trở về sau, mẹ sinh
sống ở các tỉnh trong vùng nghiên cứu gồm tất cả các tỉnh miền Nam
bao gồm cả Bình Thuận và các tỉnh Tây Nguyên từ Gia Lai trở vào vì
9
phần lớn các bệnh nhi bẩm sinh và mắc phải về cơ xương khớp tại các
tỉnh trong vùng nghiên cứu được thăm khám và điều trị tại bệnh viện
Chấn thương Chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong nghiên cứu điều trị BCK theo phương pháp Ponseti, 155 BN
với 228 BCK bẩm sinh vô căn từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi được điều trị.
101 BN với 142 BCK được theo dõi từ 24 tháng đến 117 tháng (trung
bình 44 tháng).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu bệnh chứng so sánh trẻ bị BCK và trẻ không bị
dị tật bẩm sinh về tỉ lệ các đặc điểm của trẻ và mẹ.
Nghiên cứu tiến cứu loạt ca để đánh giá kết quả điều trị BCK theo
phương pháp Ponseti.
2.2.2. Phương pháp Ponseti
2.2.2.1. Đánh giá mức độ nặng và tiến triển qua mỗi lần thay bột
Áp dụng phân loại Diméglio.
2.2.2.2. Nắn chỉnh bằng tay
Trước khi bó bột, nắn chỉnh bằng tay khoảng 2-3 phút. Các biến
dạng được nắn ch