Ngay từ thời xa xưa, con người đã biết đến sự cần thiết khi phải dùng đa dạng và hài hòa các loại thức ăn. Điều này có mục đích gì khi mà con người lúc đó chỉ cần ăn no mà chưa cần phải ngon? Một trong những câu trả lời đơn giản là để chống chọi lại với bệnh tật. Vì con người đã biết rằng ngoài những món ăn như thịt cá, cơ thể luôn cần các chất từ rau quả tươi. Sự thiếu hụt những chất này sẽ gây hại cho sức khỏe và dẫn đến bệnh tật, thể hiện rõ nhất ở những người đi biển lâu ngày. Tuy nhiên, lúc ấy chưa ai hiểu rõ tại sao. Vậy thì yếu tố nào đã giúp con người làm điều đó?
Khi nền khoa học ngày càng tiên tiến con người đã dần khám phá ra những câu trả lời đầy tính khoa học và vô cùng thuyết phục. Cơ thể con người muốn sinh trưởng và phát triển bình thường thì cần phải trao đổi với môi trường một lượng chất dinh dưỡng cần thiết. Trong đó có những chất cơ thể chúng ta cần rất nhiều như đạm, béo, gluxit một số khác cơ thể chỉ cần một lượng vô cùng nhỏ, nhưng thiếu nó thì cơ thể sẽ bị rối loạn trong chuyển hóa và biểu hiện ra bệnh lý. Những yếu tố nhỏ đó có thể là các nguyên tố vi lượng như sắt, đồng, megie, kẽm Nhưng quan trọng hơn hết là các chất được gọi dưới cái tên là Vitamin.
Nhà hóa sinh học Mỹ Casimir Funk (1884 - 1967) là người đầu tiên dùng thuật ngữ này. Năm 1912, ông đưa ra kết luận: nhiều bệnh suy dinh dưỡng hình thành do sự thiếu vắng các yếu tố thức ăn phụ. Ông gọi nó là vitamine. Theo tiếng Latin “vita” có nghĩa là “sự sống” và “amine” là “thành phần hóa học cần thiết cho sự sống”.
Trong đời sống hằng ngày chúng ta thường bắt gặp những sản phẩm quảng cáo có bổ sung yếu tố vitamin, và nghe rất nhiều về công dụng của nó. Mặc nhiên ta mua những sản phẩm đó và dùng với hi vọng nó sẽ có ích. Và sự thật nó đã có ích nếu không tính đến những trường hợp lạm dụng nó quá nhiều.
Thế thì vitamin là gì? Cấu tạo ra sao? Chúng gồm những loại nào? Chuyển hóa của nó trong cơ thể như thế nào? Nó có ở đâu? Và nhu cầu của cơ thể con người trong một ngày trung bình cần một lượng bao nhiêu?
Cũng chính vì vitamin có nhiều điều thú vị, “bí mật” và quan trọng đối với cơ thể chúng ta như thế nên Nhóm 18 chúng em đã chọn đề tài “Vitamin và chuyển hóa trong cơ thể” để trình bày trong khuôn khổ bài tiểu luận này.
39 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4213 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vitamin và chuyển hóa trong cơ thể, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HCM
VIỆN CN SINH HỌC VÀ THỰC PHẨM
------µ------
MÔN
HÓA SINH THỰC PHẨM
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
GVHD: Th.S NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG
SVTH : NHÓM 18 - LỚP HP 210501202
TRẦN CÔNG NAM MSSV: 09079861
HOÀNG CÔNG NHẬT MSSV: 09088341
TRẦN THỊ LỆ THỦY MSSV: 09210471
Tp. HCM, tháng 11 năm 2010
------µ------
MỤC LỤC
------µ------
PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ:
Hoàng Công Nhật – Tìm hiểu về các vitamin tan trong chất béo: A, D, K, Q, F, E.
Trần Công Nam – Tìm hiểu về các vitamin tan trong nước: B1, B2, B3, B6, B12, B15.
Trần Thị Lệ Thủy – Tìm hiểu về các vitamin tan trong nước: PP, H, P, C, và các vitamin đặc biệt khác.
------µ------
MỞ ĐẦU
Ngay từ thời xa xưa, con người đã biết đến sự cần thiết khi phải dùng đa dạng và hài hòa các loại thức ăn. Điều này có mục đích gì khi mà con người lúc đó chỉ cần ăn no mà chưa cần phải ngon? Một trong những câu trả lời đơn giản là để chống chọi lại với bệnh tật. Vì con người đã biết rằng ngoài những món ăn như thịt cá, cơ thể luôn cần các chất từ rau quả tươi. Sự thiếu hụt những chất này sẽ gây hại cho sức khỏe và dẫn đến bệnh tật, thể hiện rõ nhất ở những người đi biển lâu ngày. Tuy nhiên, lúc ấy chưa ai hiểu rõ tại sao. Vậy thì yếu tố nào đã giúp con người làm điều đó?
Khi nền khoa học ngày càng tiên tiến con người đã dần khám phá ra những câu trả lời đầy tính khoa học và vô cùng thuyết phục. Cơ thể con người muốn sinh trưởng và phát triển bình thường thì cần phải trao đổi với môi trường một lượng chất dinh dưỡng cần thiết. Trong đó có những chất cơ thể chúng ta cần rất nhiều như đạm, béo, gluxit… một số khác cơ thể chỉ cần một lượng vô cùng nhỏ, nhưng thiếu nó thì cơ thể sẽ bị rối loạn trong chuyển hóa và biểu hiện ra bệnh lý. Những yếu tố nhỏ đó có thể là các nguyên tố vi lượng như sắt, đồng, megie, kẽm… Nhưng quan trọng hơn hết là các chất được gọi dưới cái tên là Vitamin.
Nhà hóa sinh học Mỹ Casimir Funk (1884 - 1967) là người đầu tiên dùng thuật ngữ này. Năm 1912, ông đưa ra kết luận: nhiều bệnh suy dinh dưỡng hình thành do sự thiếu vắng các yếu tố thức ăn phụ. Ông gọi nó là vitamine. Theo tiếng Latin “vita” có nghĩa là “sự sống” và “amine” là “thành phần hóa học cần thiết cho sự sống”.
Trong đời sống hằng ngày chúng ta thường bắt gặp những sản phẩm quảng cáo có bổ sung yếu tố vitamin, và nghe rất nhiều về công dụng của nó. Mặc nhiên ta mua những sản phẩm đó và dùng với hi vọng nó sẽ có ích. Và sự thật nó đã có ích nếu không tính đến những trường hợp lạm dụng nó quá nhiều.
Thế thì vitamin là gì? Cấu tạo ra sao? Chúng gồm những loại nào? Chuyển hóa của nó trong cơ thể như thế nào? Nó có ở đâu? Và nhu cầu của cơ thể con người trong một ngày trung bình cần một lượng bao nhiêu?
Cũng chính vì vitamin có nhiều điều thú vị, “bí mật” và quan trọng đối với cơ thể chúng ta như thế nên Nhóm 18 chúng em đã chọn đề tài “Vitamin và chuyển hóa trong cơ thể” để trình bày trong khuôn khổ bài tiểu luận này.
Chúng em xin chân thành cám ơn Nhà trường đã tạo điều kiện cơ sở vật chất, cô Mai Hương đã tạo hướng đi cho Nhóm và cám ơn các bạn sinh viên đã giúp Nhóm hoàn thành tốt bài tiểu luận này!
Tuy Nhóm đã rất cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của Cô và các bạn về nội dung cũng như hình thức của bài. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng gửi về địa chỉ trcnam@gmail.com . Nhóm xin chân thành cảm ơn!
------µ------
NỘI DUNG
KHÁI QUÁT VỀ VITAMIN [1],[5].
Vitamin là nhóm các chất có phân tử lượng nhỏ khác nhau về bản chất hoá học nhưng cần thiết cho quá trình phát triển, hoạt động sống và sinh sản của cơ thể. Những dấu hiệu đặc trưng của Vitamin là:
- Không được tổng hợp trong cơ thể, vì thế cần được bổ sung từ bên ngoài theo thức ăn. Một số loại vitamin (B6, B12,axit pantotenic, acid folic...) được hệ vi khuẩn ở ruột tổng hợp hoặc tạo ra trong cơ thể (như acid nicotinic được tổng hợp từ tryptophan), tuy vậy các phản ứng này không đủ cung cấp cho nhu cầu của cơ thể.
- Vitamin không phải là nguồn năng lượng hay tham gia cấu tạo tế bào. Nhu cầu về vitamin không lớn, nhu cầu một ngày chỉ vài phần của gam (Vitamin C cần 80-100mg; Vitamin B1 cần 1- 3mg).
- Vitamin được cơ thể hấp thụ với một lượng nhỏ nhưng có ảnh hưởng đến tất cả các quá trình sinh hoá trong cơ thể. Phần lớn vitamin tham gia vào thành phần cấu tạo coenzyme, quyết định hoạt tính của đặc thù của chúng.
- Khi trong thức ăn thiếu vitamin hoặc cơ thể hấp thu kém, sẽ dẫn đến các rối loạn trao đổi chất đặc trưng và rối loạn chức năng, cơ thể sẽ xuất hiện các dấu hiệu bệnh lý (bệnh thiếu vitamin và bệnh giảm vitamin).
Cho đến nay người ta đã tách ra được khoảng 30 loại chất thuộc nhóm Vitamin, đa số đã được xác định đầy đủ cả cấu trúc hóa học cũng giống như tính chất lý hóa học và sinh lý học. Về cách gọi tên các vitamin hiện nay người ta vấn duy trì gọi theo ba kiểu khác nhau. Kiểu thứ nhất theo tác dụng sinh lý của vitamin: thêm chữ anti vào một bệnh đặc trưng của hiện tượng thiếu vitamin, kiểu thứ hai là dùng chữ cái để đặt tên, còn kiểu thứ ba dựa trên cấu trúc hóa học, hiện nay người ta có xu hướng gọi bằng tên hóa học nhiều hơn.
Để nghiên cứu về vitamin, người ta chia thành hai nhóm lớn dựa vào cơ sở sinh lý và hóa học: nhóm vitamin hòa tan trong nước và nhóm vitamin hòa tan trong chất béo. Chúng ta sẽ xét lần lượt các vitamin quan trọng thuộc hai nhóm trên.
CÁC VITAMIN TAN TRONG CHẤT BÉO
Vitamin tan trong chất béo có khả năng dự trữ trong cơ thể, do vậy sự thiếu hụt tạm thời của chúng không dẫn đến tác hại lớn đối với cơ thể. Khi cơ thể tiếp nhận một lượng lớn vitamin tan trong chất béo, thì nồng độ của chúng trong lipit của cơ thể có thể vượt qua mức bình thường và trong một số trường hợp có thể dẫn tới những rối loạn quá trình trao đổi chất và các rối loạn chức năng (bệnh thừa vitamin). Trong nhóm này gồm những vitamin như: A, D, E, K,...
2.1. VITAMIN A VÀ CAROTEN
2.1.1. CẤU TẠO VÀ TÍNH CHẤT[1],[3],[4].
Từ năm 1909, Step đã tiến hành thí nghiệm trên chuột ăn thực phẩm đã bị rút hết chất béo bằng hỗn hợp ete – rượu. Chuột nuôi theo cách này bị sút cân nhanh chóng và chết. Nếu thêm vào thực phẩm yếu tố đã bị rút ra ở trên thì chuột lại hồi phục sức khỏe và tiếp tục phát triển. Dựa trên thí nghiệm này, Step đã đưa ra nhận xét rằng trong thực phẩm có các yếu tố hòa tan trong chất béo cần thiết cho hoạt động sống của cơ thể gọi đó là yếu tố A, sau này gọi là nhóm vitamin A.
Cấu tạo: Vitamin A là một chất dinh dưỡng thiết yếu cho con người. Nó không tồn tại dưới dạng một hợp chất duy nhất, mà dưới một vài dạng. Dạng chính của vitamin A là retinol, nhưng cũng có thể tồn tại dưới dạng andehyt là retinal, hay dạng axít là axít retinoic. Các tiền chất của vitamin A (tiền vitamin A) tồn tại trong thực phẩm nguồn gốc thực vật gồm 3 loại là α, β, γ - caroten trong đó quan trọng kể đến là β – caroten.
Hình 1:Cấu trúc của retinol, dạng phổ biến nhất của vitamin A trong thực phẩm
a)
b)
Hình 2: a) Các dạng Vitamin A; b) β – caroten
Tính chất: Vitamin A không tan trong nước, tan tốt trong các dung môi của lipit, ete, ethanol…Bền trong điều kiện yếm khí, bền với acid và kiềm ở nhiệt độ không quá cao. Dễ bị oxy hóa bởi oxy không khí, ánh sáng làm tăng quá trình oxy hóa vitamin A. Dưới tác dụng của enzyme dehyrogenase thì retinol chuyển sang dạng retinal. Phản ứng với SbCl3 cho phức chất màu xanh. Phản ứng với H2SO4 cho phức chất màu nâu.
β – caroten khi bị thủy phân bằng enzyme carotenase ta sẽ thu được 2 phân tử vitamin A. β – caroten không tự chuyển qua vitamin A được mà tùy thuộc vào nhu cầu cơ thể. Khi cơ thể cần vitamin A thì nó mới chuyển thành vtamin A. β – caroten dư được tích lũy trong cơ thể dưới các mô mỡ.
CHUYỂN HÓA TRONG CƠ THỂ[1],[4].
Vitramin A tham gia vào quá trình trao đổi protein, lipit, saccharid, muối khoáng. Tham gia vào quá trình oxy hóa-khử trong cơ thể, chống lão hóa, liên quan tới quá trình chuyển hóa năng lượng. Giúp tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Tham gia vào quá trình cảm nhận ánh sáng.
Trong cơ thể vitamin A tham gia vào hoạt động thị giác, giữ gìn chức phận của tế bào biểu mô trụ. Trong máu vitamin A dưới dạng retinol sẽ chuyển thành retinal. Trong bóng tối, retinal kết hợp với opsin (là một protein) để cho ra rhodopsin là sắc tố nhạy cảm với ánh sáng ở võng mạc mắt, giúp võng mạc nhận được các hình ảnh trong điều kiện thiếu ánh sáng. Sau đó, khi ra sáng rhodopsin lại bị phân huỷ cho opsin và trans-retinal, rồi trans-retinal vào máu để cho trở lại cis-retinol. Vitamin A mà chủ yếu là acid retinoic còn là chất cần thiết cho hoạt động của biểu mô, làm bài tiết chất nhày và ức chế sự sừng hóa. Acid retinoic (một chất chuyển hóa có hoạt tính của vitamin A) kích thích sự hình thành và hoạt động của tế bào hủy xương (hủy cốt bào) dẫn đến tăng sự tiêu xương và hình thành xương màng (periosotal bone). Ngoài ra vitamin A còn có chức năng phát triển và chức năng sinh sản.
Thiếu
Khi cơ thể thiếu vitamin A sẽ làm giảm quá trình sinh tổng hợp protein, giảm quá trình tích lũy glycogen trong gan, giảm lượng alpha, beta, gamma-globulin, albumin trong máu. Dễ bị nhiễm kí sinh trùng gây chậm lớn, viêm đường hô hấp, đường tiêu hóa dễ bị nhiễm trùng và dễ phát bệnh, gây bệnh khô mắt, quáng gà, khô kết mạc và giảm tiết các tuyến nước mắt, bị nặng có thể dẫn tới mù lòa.
Giảm sút trọng lượng và kích thước tuyến ức và tuyến lách (hai cơ quan tạo tế bào limpho). Tế bào limpho giảm về cả số lượng và sinh lực trong vai trò tạo kháng thể.
Mất cảm giác ngon miệng, cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất các tế bào tinh trùng, bào thai phát triển không bình thường.
Thừa
Nếu thừa vitamin A sẽ gây đau bụng, buồn nôn, bơ phờ, chậm chạp, phù gai thị, thóp phồng, vài ngày tiếp theo da bong toàn thân rồi hồi phục dần khi đã ngừng thuốc. Ngộ độc mãn tính có thể xảy ra sau khi uống 40.000 đơn vị hoặc hơn mỗi ngày, dùng thời gian dài gây đau xương khớp, rụng tóc, môi khô nứt nẻ, chán ăn, gan lách to. Làm xét nghiệm vitamin A huyết thanh tăng.
Phụ nữ mang thai, nếu thừa vitamin A, sẽ gây các dị dạng bẩm sinh như sảy thai, bất thường ở sọ mặt và bệnh van tim.
Ở trẻ em, thừa vitamin A gây tăng áp lực nội sọ, gây lồi thóp ở trẻ sơ sinh, gây viêm teo dây thần kinh thị giác.
NGUỒN CUNG VÀ NHU CẦU CỦA CƠ THỂ[1],[4],[5].
Vitamin A và β – caroten được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm. Nhiều trong các loại rau xanh thẫm hoặc trái cây có màu đỏ như: ớt, cà rốt, hành lá, bí đỏ, gấc.... Mỗi loại chứa ít nhất 0,15 mg (tương đương với 150 microgam (hay 500 IU) vitamin A hay β - caroten trên 1,75-7 oz. (50-200g):
Gan : 6500 μg.
Cà rốt: 835 μg.
Khoai lang: 709 μg.
Cải lá, cải bông: 681 μg.
Rau bina: 469 μg.
Rau ăn lá, bí ngô, bí đỏ : 369 μg.
Trứng: 140 μg.
Đu đủ : 55 μg.
Xoài: 38 μg.
Củ cải đường, đỗ : 38 μg.
Nhu cầu
Thiếu hay thừa vitamin A đều gây bệnh vì vậy cần bổ sung 1 lượng thích hợp.
Lượng vitamin A cần thiết đưa vào cơ thể mối ngày là:
Trẻ em dưới 3 tuổi: 600 mcg (2000 IU)
Trẻ em từ 4-8 tuổi: 900 mcg (3000 IU)
Trẻ em từ 9-14 tuổi: 1700 mcg (5666 IU)
Người lớn: 3000 mcg (10000 IU)
Phụ nữ có thai: 3000 mcg.
2.2. VITAMIN D
2.2.1. CẤU TẠO VÀ TÍNH CHẤT[4],[5],[6].
Các công trình nghiên cứu về vitamin D được bắt đầu từ năm 1916. Tới năm 1931 người ta đã tổng hợp thành công vitamin D. Nó bao gồm một số dạng có cấu trúc gần nhau như vitamin D2, D3, D4, D5, D6,… Tuy nhiên chỉ hai dạng đầu là D2 và D3 là phổ biến và có ý nghĩa hơn cả. Vitamin D là dẫn xuất của sterol. Cấu tạo của chúng như sau:
a) b)
Hình 3: a) Vitamin D2 , b) Vitamin D3
Vitamin D2 và D3 là các tinh thể không màu, nóng chảy ở nhiệt độ 115 - 1160C, không tan trong nước mà tan trong dung môi hữu cơ như chloroform, aceton, rượu... Dễ phân hủy khi có chất oxi hóa, ánh sáng hay acid vô cơ.
CHUYỂN HÓA TRONG CƠ THỂ[1],[4].
Vitamin D có ảnh hưởng đến quá trình trao đổi khoáng (calci, phospho) và quá trình hình thành xương, giúp làm tăng sự hấp thụ calci ở vách ruột dưới dạng liên kết (vitamin D – Ca2+) chất khoáng này dễ qua ruột vào máu và đến xương, tỷ lệ Ca/P = 2/1 là phù hợp nhất cho việc hấp thụ Ca2+, P ở ruột. Nó còn kích thích sự tái hấp thu các muối photphat ở ống thận, giúp cho cơ thể tiết kiệm được nguồn dự trữ photphat cũng như làm tăng cường hấp thu lưu huỳnh để tổng hợp condroitin sulfat. Ngoài ra vitamin D còn làm tăng hoạt lực enzym phosphatase của xương và làm giảm sự bài tiết calci qua vách ruột già.
Khi chiếu tia tử ngoại và ergosterol và colesterol, sẽ thu được các citamin D2 và D3 tương ứng. Trong thực vật có các loại sterol, chủ yếu ergosterol đưới tác dụng của tia tử ngoại cũng chuyển thành các vitamin nhóm D. Nấm men và nấm mốc là nguồn giàu ergosterol, vì vậy chúng được dùng trong kỹ nghệ sản xuất vitamin D.
Vitamin D 3 is made in the skin when 7-dehydrocholesterol reacts with UVB ultraviolet light at wavelengths between 270–300 nm, with peak synthesis occurring between 295-297 nm. [ 11 ] These wavelengths are present in sunlight when the UV index is greater than 3. Vitamin D3 được tổng hợp ở da khi 7-dehydrocholesterol phản ứng với ánh sáng tử ngoại ở bước sóng 270-300 nm, với cao điểm tổng hợp xảy ra giữa 295-297 nm. Tùy thuộc vào cường độ của các tia tử ngoại và các phút tiếp xúc, một trạng thái cân bằng có thể phát triển trên da, và vitamin D bị giảm nhanh như khi nó được tạo ra.
Vitamin D được dự trữ ở gan, sữa, bơ, nấm, enzym, dầu thực vật. Tắm nắng là một biện pháp tốt để tăng cường vitamin D.
Thiếu
Thiếu vitamin D ở trẻ em sẽ dẫn tới các triệu chứng như suy nhược chung, chậm mọc răng, xương trở nên mềm và cong. Dẫn đến bệnh còi xương ở trẻ em và bệnh loãng xương ở người lớn. Đặc trưng cho bệnh còi xương là không có khả năng cốt hóa xương, kết quả là hộp sọ mềm, chân vòng kiềng, vẹo cột sống và phì đại khớp.
Thừa
Tăng nồng độ calci trong máu (tình trạng nặng), sự lắng đọng calci trong các cơ quan nội tạng và sỏi thận, góp phần làm xơ vữa động mạch và bệnh tim mạch, người lớn dùng quá liều lâu ngày cũng bị chán ăn, nôn ói, tiêu chảy. Ở trẻ em gây chán ăn, mệt mỏi, nôn ói, xương hóa sụn sớm. Phụ nữ có thai dùng quá thừa vitamin D sẽ bị vôi hóa nhau thai
NGUỒN CUNG VÀ NHU CẦU CỦA CƠ THỂ[4],[5].
Nguồn cung vitamin D là mỡ cá, gan, lòng đổ trứng, sữ... Cá béo như cá hồi là những nguồn tự nhiên của vitamin D. Nhìn chung ở động vật, gan là nguồn dự trữ của tất cả các vitamin song lại rất ít vitamin D, riêng đối với cá và động vật có vú ở biển thì gan lại chứa một lượng lớn vitamin D. Ngoài ra nếu ta tiếp xúc với ánh sáng mặt trời một cách hợp lí thì cơ thể có thể tổng hợp được vitamin D.
Natural sources of vitamin D include: [ 5 ]Fatty fish species, such as: Loài cá béo, chẳng hạn như: đơn vị IU/100g
Catfish , 85 g (3 oz) provides 425 IU (5 IU/g) Cá da trơn : 425.
Salmon , cooked, 100 g (3.5 oz) provides 360 IU (3.6 IU/g)Cá hồi : 360.Mackerel , cooked, 100 g (3.5 oz), 345 IU (3.45 IU/g)
Cá thu: 345.
Sardines , canned in oil, drained, 50 g (1.75 oz), 250 IU (5 IU/g)Cá mòi: 500 Tuna , canned in oil, 100 g (3.5 oz), 235 IU (2.35 IU/g).
Cá ngừ: 235. Eel , cooked, 100 g (3.5 oz), 200 IU (2.00 IU/g)
Lươn: 200.
Gan bò: 15
A whole egg provides 20 IU (0.33 IU/g if egg weighs 60 g) Một quả trứng cung cấp khoảng 20 IU (nếu trứng nặng 60 g)Beef liver, cooked, 100 g (3.5 oz), provides 15 IU (0.15 IU/g)Fish liver oils, such as cod liver oil , 1 Tbs. ( 15 ml ) provides 1360 IU (90.6 IU/ml)Mushrooms are the only vegan source of vitamin D (besides UV light or sunlight exposure). [ 30 ] [ 31 ] 100g provides: (regular) 14 IU (0.14 IU/g), (exposed to UV) 500 IU (5 IU/g) [ 32 ].
Nhu cầu:
Nhu cầu về vitamin D phụ thuộc vào điều kiện dinh dưỡng, nhiệt độ, khí hậu và điều kiện hấp thụ canxi và phospho của cơ thể. Đơn vị IU/ngày
Trẻ em: 300 – 400.
Người lớn: 200 – 400.
Phụ nữ mang thai: 500 – 600.
2.3. VITAMIN E
2.3.1. CẤU TẠO VÀ TÍNH CHẤT[1],[4].
Từ năm 1922 – 1923 Evans và Bishop đã chứng minh rằng trong thực phẩm có chứa một loại vitamin cần thiết đối với quá trình sinh sản bình thường ở chuột. Đến năm 1936 người ta tách được từ dầu mầm lúa mì và dầu bông các loại dẫn xuất của benzopiran và đặt tên là nhóm vitamin E.
Vitamin E là tên gọi chung để chỉ hai lớp các phân tử (bao gồm các tocopherol và các tocotrienol) có tính hoạt động vitamin E trong dinh dưỡng. Vitamin E không phải là tên gọi cho một chất hóa học cụ thể, mà chính xác hơn là cho bất kỳ chất nào có trong tự nhiên mà có tính năng vitamin E trong dinh dưỡng.
Vitamin E tự nhiên tồn tại dưới 8 dạng khác nhau, trong đó có 4 tocopherol và 4 tocotrienol. Tất cả đều có vòng chromanol, với nhóm hydroxyl có thể cung cấp nguyên tử hiđrô để khử các gốc tự do và nhóm R (phần còn lại của phân tử) sợ nước để cho phép thâm nhập vào các màng sinh học. Các tocopherol và tocotrienol đều có dạng alpha, beta, gamma và delta, được xác định theo số lượng và vị trí của các nhóm metyl trên vòng chromanol. Mỗi dạng có hoạt động sinh học hơi khác nhau.
Hình 4: Các dạng vitamin E
Tính chất: Ở dạng tinh khiết, tocopherol có dạng dầu nhờn, màu vàng sáng không tan trong nước và phần lớn các dung môi hữu cơ (ether, aceton, chloroform, methanol, alcool). Trong các tocopherol, α-tocopherol là chất hoạt động nhất. Nó là đại biểu chính của vitamin E vì chiếm 90% tất cả tocopherol trong máu và tổ chức. Tocopherol khá bền đối với nhiệt, nó có thể chịu được tới 170oC khi đun nóng trong không khí. Tuy nhiên tia tử ngoại sẽ phá hủy nhanh chóng Tocopherol.
Tính chất quan trọng hơn cả là khả năng bị oxy hóa bởi các chất khác nhau như sắt (III) clorua hoặc axit nitric.
2.3.2. CHUYỂN HÓA TRONG CƠ THỂ[1],[4].
Tác dụng chống oxy hoá. Vitamin E là chất chống oxy hoá mạnh, có thể bảo vệ cho tế bào tránh khỏi các nguy hại do các gốc tự do gây nên, ức chế sự oxy hoá của chất dạng mỡ trên màng tế bào và trong tế bào, ngoài ra có thể phản ứng với peroxyde làm cho chúng chuyển hoá thành các chất không gây độc hại đối với tế bào. Vitamin E có tác dụng phòng ngừa sự oxy hoá của vitamin A, vitamin C, để đảm bảo chức năng dinh dưỡng của chúng trong cơ thể. Duy trì tính hoàn chỉnh của hồng cầu. Hàm lượng viatmin E trong thức ăn thấp sẽ dẫn đến lượng hồng cầu giảm và rút ngắn thời gian sinh tồn của hồng cầu. Nó còn tham gia điều tiết sự tổng hợp nên một số chất trong cơ thể, điều tiết các bazơ pyridine và tham gia vào các quá trình tổng hợp sinh học của DNA. Vitamin E là nhân tố để hỗ trợ tổng hợp nên vitamin C và coenzyme Q, đồng thời có khả năng liên quan đến sự tổng hợp nên hemoglobin. Vitamin E có thể ức chế sự oxy hoá các chất không phải là hemoglobin như protein, sắt, bảo vệ gốc – SH. Vitamin E cũng có khả năng tham gia tạo thành và phát triển của tinh trùng.
Vitamin E ăn vào được hấp thụ ở ruột non, nhưng trong quá trình hấp thụ quá nửa số lượng có trong khẩu phần đã bị phá huỷ.
Thiếu
Sự tạo phôi sẽ bị cản trở, đồng thời xảy ra sự thoái hóa các cơ quan sinh sản, tình trạng teo cơ, thoái hóa tủy sống và suy nhược chung cơ thể.
Thiếu vitamin E xảy ra khi rối loạn hấp thu lipid.
Thừa
Gây rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, rối loạn thị giác, chán ăn, buồn nôn, sút cân, đi tiểu tăng lên, mất nước, tăng huyết áp. Những tác dụng này chỉ xuất hiện với liều rất cao (25 đến 27 mg/ngày cho 1kg trọng lượng) và dùng trong nhiều tuần. Dùng liều cao lúc có thai có thể gây sống thai hay tăng calci máu ở trẻ bú mẹ (chậm phát triển về tâm thần vận động, bất thường về tim mạch).
2.3.3. NGUỒN CUNG VÀ NHU CẦU CỦA CƠ THỂ[4],[5].
Vitamin E không có trong mỡ cá, nước cam mà có nhiều trong bơ, trong rau xà lách và các loại dầu thực vật khác.
Hàm lượng vitamin E của một số nguồn như sau (đơn vị mg/100g):
Dầu mầm lúa mì: 215,4
Dầu hướng dương: 55,8
Dầu lạc: 17,2
Dầu ô liu: 12,0
Lạc: 9,0
Cám mịn: 2,4
Ngô: 2,0
Măng tây, Yến mạch: 1,5
Dẻ: 1,2
Dừa: 1,0
Cà chua: 0,9
Cà rốt: 0,6
Nhu cầu
Nhu cầu về vitamin E đối với cơ thể không lớn lắm vì trong cơ thể lượng vitamin E dự trữ đủ để đảm bảo được một thời gian dài tới vài tháng, vì vậy ít khi xảy ra hiện tượng thiếu vitamin E. Trung bình cơ thể cần 14 – 19mg trong một ngày. Tùy theo độ tuổi và trạng thái sinh