Chuyên đề Nâng cao năng lực nhận tái bảo hiểm của VINARE trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO

Nền kinh tế tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao và ổn định, đầu tư nước ngoài được duy trì ở mức cao, nhiều dự án lớn về thuỷ điện và cơ sở hạ tầng được khởi công xây dựng là những động lực mạnh mẽ thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển. Tuy nhiên với một nhu cầu bảo hiểm tăng cao như hiện nay, thêm vào đó là giá trị của đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng lớn trong khi vốn của các công ty bảo hiểm trong nước lại có hạn mà hoạt động tái bảo hiểm trong thời gian qua đã hết sức sôi động. Ra đời theo quyết định số 920/TC/QĐ/TCCB của Bộ Tài chính, Tổng công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (viết tắt là VINARE) đã chính thức đi vào hoạt động năm 1995 và là công ty duy nhất trên thị trường chỉ hoạt động chuyên trong lĩnh vực kinh doanh tái bảo hiểm. Nếu như trước đó phần lớn các dịch vụ bảo hiểm được chuyển ra nước ngoài, thì với sự có mặt của VINARE trên thị trường, tình trạng ấy đã được hạn chế phần nào. Trong suốt hơn 12 năm hoạt động, VINARE đã đạt được không ít thành công trong việc nâng dần tỷ lệ giữ lại cho thị trường trong nước, đồng nghĩa với đó là hạn chế được lượng ngoại tệ chảy ra nước ngoài. Mặt khác, VINARE cũng hoạt động khá hiệu quả trong việc cung cấp thông tin bảo hiểm/tái bảo hiểm, tư vấn hỗ trợ các công ty bảo hiểm trong nước thu xếp tái bảo hiểm Song cũng cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng mặc dù tỷ lệ giữ lại cho thị trường nói chung cũng như cho VINARE nói riêng có tăng nhưng phần giữ lại đó vẫn chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn so với lượng phí bảo hiểm chuyển nhượng ra nước ngoài. Trong khi đó hội nhập đã đến, nhiều cam kết gia nhập WTO của ngành bảo hiểm đã bắt đầu có hiệu lực, cơ hội có nhiều nhưng những thử thách đối với hoạt động nhận tái của VINARE cũng sẽ không ít. Trước tình hình đó, để vừa tự khẳng định vai trò, vị thế của mình trên thị trường tái bảo hiểm trong và ngoài nước, vừa có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Chính phủ đã giao, thiết nghĩ việc “Nâng cao năng lực nhận tái của VINARE trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới - WTO” là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên với vốn kiến thức có hạn, khi đặt bút viết chuyên đề này em hoàn toàn không có tham vọng lật ngược tình thế hay nói cách khác là cải thiện ngay được kết quả hoạt động nhận tái của VINARE. Để làm được điều đó chắc chắn phải cần đến sự đóng góp nhiệt tình với tinh thần trách nhiệm cao của chuyên gia đầu ngành cũng như của lãnh đạo, cán bộ trong công ty. Về phần mình, chỉ với tư cách là một sinh viên khoa bảo hiểm, được học đôi chút về tái bảo hiểm, em thiết nghĩ mục đích đặt ra cho đề tài này không nhất thiết phải là quá lớn. Trước hết, đây phải là sự tổng hợp, hệ thống hoá kiến thức về tái bảo hiểm. Thứ đến là báo cáo kết quả thu được sau thời gian dài thực tập tại công ty. Cuối cùng, em cũng rất lấy làm vinh dự nếu như xét ở một góc độ nào đó, đề tài lại có thể góp phần gợi ra một hướng đi mới trong nghiên cứu về hoạt động nhận tái bảo hiểm tại VINARE. Do diễn biến thị trường cũng như bản thân VINARE đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là từ khi chuyển sang mô hình công ty cổ phần năm 2005, bài viết chỉ xin lấy bốn năm gần đây nhất là các năm 2004, 2005, 2006, 2007 để phản ánh hoạt động nhận tái của công ty. Để tiện theo dõi, chuyên đề này được chia làm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Riêng phần thứ hai - nội dung được chia làm ba chương, cụ thể là: Chương 1: Khái quát chung về tái bảo hiểm và năng lực nhận tái bảo hiểm Chương 2: Thực tiễn hoạt động kinh doanh nhận tái bảo hiểm của VINARE giai đoạn 2004 - 2007 Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực nhận tái của VINARE trong bối cảnh gia nhập WTO.

doc86 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2909 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao năng lực nhận tái bảo hiểm của VINARE trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Nền kinh tế tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao và ổn định, đầu tư nước ngoài được duy trì ở mức cao, nhiều dự án lớn về thuỷ điện và cơ sở hạ tầng được khởi công xây dựng…là những động lực mạnh mẽ thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển. Tuy nhiên với một nhu cầu bảo hiểm tăng cao như hiện nay, thêm vào đó là giá trị của đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng lớn trong khi vốn của các công ty bảo hiểm trong nước lại có hạn mà hoạt động tái bảo hiểm trong thời gian qua đã hết sức sôi động. Ra đời theo quyết định số 920/TC/QĐ/TCCB của Bộ Tài chính, Tổng công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (viết tắt là VINARE) đã chính thức đi vào hoạt động năm 1995 và là công ty duy nhất trên thị trường chỉ hoạt động chuyên trong lĩnh vực kinh doanh tái bảo hiểm. Nếu như trước đó phần lớn các dịch vụ bảo hiểm được chuyển ra nước ngoài, thì với sự có mặt của VINARE trên thị trường, tình trạng ấy đã được hạn chế phần nào. Trong suốt hơn 12 năm hoạt động, VINARE đã đạt được không ít thành công trong việc nâng dần tỷ lệ giữ lại cho thị trường trong nước, đồng nghĩa với đó là hạn chế được lượng ngoại tệ chảy ra nước ngoài. Mặt khác, VINARE cũng hoạt động khá hiệu quả trong việc cung cấp thông tin bảo hiểm/tái bảo hiểm, tư vấn hỗ trợ các công ty bảo hiểm trong nước thu xếp tái bảo hiểm… Song cũng cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng mặc dù tỷ lệ giữ lại cho thị trường nói chung cũng như cho VINARE nói riêng có tăng nhưng phần giữ lại đó vẫn chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn so với lượng phí bảo hiểm chuyển nhượng ra nước ngoài. Trong khi đó hội nhập đã đến, nhiều cam kết gia nhập WTO của ngành bảo hiểm đã bắt đầu có hiệu lực, cơ hội có nhiều nhưng những thử thách đối với hoạt động nhận tái của VINARE cũng sẽ không ít. Trước tình hình đó, để vừa tự khẳng định vai trò, vị thế của mình trên thị trường tái bảo hiểm trong và ngoài nước, vừa có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Chính phủ đã giao, thiết nghĩ việc “Nâng cao năng lực nhận tái của VINARE trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới - WTO” là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên với vốn kiến thức có hạn, khi đặt bút viết chuyên đề này em hoàn toàn không có tham vọng lật ngược tình thế hay nói cách khác là cải thiện ngay được kết quả hoạt động nhận tái của VINARE. Để làm được điều đó chắc chắn phải cần đến sự đóng góp nhiệt tình với tinh thần trách nhiệm cao của chuyên gia đầu ngành cũng như của lãnh đạo, cán bộ trong công ty. Về phần mình, chỉ với tư cách là một sinh viên khoa bảo hiểm, được học đôi chút về tái bảo hiểm, em thiết nghĩ mục đích đặt ra cho đề tài này không nhất thiết phải là quá lớn. Trước hết, đây phải là sự tổng hợp, hệ thống hoá kiến thức về tái bảo hiểm. Thứ đến là báo cáo kết quả thu được sau thời gian dài thực tập tại công ty. Cuối cùng, em cũng rất lấy làm vinh dự nếu như xét ở một góc độ nào đó, đề tài lại có thể góp phần gợi ra một hướng đi mới trong nghiên cứu về hoạt động nhận tái bảo hiểm tại VINARE. Do diễn biến thị trường cũng như bản thân VINARE đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là từ khi chuyển sang mô hình công ty cổ phần năm 2005, bài viết chỉ xin lấy bốn năm gần đây nhất là các năm 2004, 2005, 2006, 2007 để phản ánh hoạt động nhận tái của công ty. Để tiện theo dõi, chuyên đề này được chia làm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Riêng phần thứ hai - nội dung được chia làm ba chương, cụ thể là: Chương 1: Khái quát chung về tái bảo hiểm và năng lực nhận tái bảo hiểm Chương 2: Thực tiễn hoạt động kinh doanh nhận tái bảo hiểm của VINARE giai đoạn 2004 - 2007 Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực nhận tái của VINARE trong bối cảnh gia nhập WTO. Sinh viên: Nguyễn Thuỳ Dương CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁI BẢO HIỂM VÀ NĂNG LỰC NHẬN TÁI BẢO HIỂM I. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TÁI BẢO HIỂM 1. Sự cần thiết và bản chất của tái bảo hiểm 1.1 Sự cần thiết của tái bảo hiểm Cũng giống như bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, ngoài việc đáp ứng nhu cầu an toàn cho con người thì lợi nhuận luôn là mục tiêu của hoạt động bảo hiểm thương mại. Để đạt được mục tiêu đó thì một trong những nguyên tắc quan trọng mà khi tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn phải tuân thủ, đó là nguyên tắc phân tán rủi ro. Bởi sau khi nhận các rủi ro được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm lúc này sẽ là người phải đối mặt với những tổn thất có thể rất lớn nếu rủi ro xảy ra. Mặc dù quĩ bảo hiểm là một quĩ tài chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của nhiểu người theo nguyên tắc số đông và như vậy với tư cách là người huy động và quản lý quĩ, các công ty bảo hiểm có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào công ty bảo hiểm cũng luôn đảm bảo được khả năng này. Rủi ro luôn tiềm ẩn trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và kinh doanh bảo hiểm không phải là trường hợp ngoại lệ. Điều này xuất phát từ chính đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm: Thứ nhất, bảo hiểm có chu kỳ kinh doanh đảo ngược, phí bảo hiểm thu trước trong khi việc chi trả bồi thường lại phát sinh sau. Hơn nữa xác suất rủi ro lại khó có thể dự báo một cách chính xác tuyệt đối khi tính phí bảo hiểm. Nên với trường hợp xác suất rủi ro thực tế lớn hơn xác suất rủi ro dự báo hay có những tổn thất xảy ra liên tục trong một thời gian dài và thậm chí có thể là những tổn thất mang tính thảm hoạ thì chính các nhà bảo hiểm sẽ phải gánh chịu những rủi ro. Thứ hai, kinh doanh bảo hiểm không chỉ đơn thuần là hoạt động kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận cho các nhà bảo hiểm mà còn là san sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm với nhau. Tuy nhiên có những đối tượng tham gia bảo hiểm hoạt động ở địa bàn xa dẫn đến công ty bảo hiểm không có khả năng kiểm soát và quản lý rủi ro dễ xảy ra tình trạng trục lợi bảo hiểm hoặc khi sự kiện bảo hiểm xảy ra để lại tổn thất lớn. Thứ ba, kinh doanh bảo hiểm còn phải đáp ứng các yêu cầu pháp luật về vốn và biên khả năng thanh toán…nhằm đảm bảo khả năng chi trả bồi thường cho người tham gia bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm. Những yêu cầu đó một mặt bảo vệ lợi ích cho người tham gia bảo hiểm, mặt khác đã hạn chế hoạt động kinh doanh của bảo hiểm. Bởi không phải công ty bảo hiểm nào cũng có đủ khả năng tài chính để chấp nhận tất cả các đơn yêu cầu bảo hiểm đặc biệt là đối với những đối tượng tham gia bảo hiểm có giá trị lớn. Mà việc từ chối bảo hiểm lại được coi là điều tối kị trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm vì khi đó việc mất khách hàng (những người có yêu cầu hiện tại và trong tương lai) là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, để bảo vệ cho chính mình trước nguy cơ phá sản, mất các khách hàng lớn và bất ổn trong hoạt động kinh doanh, các công ty bảo hiểm sẽ phải phân tán rủi hay chuyển giao rủi ro cho các nhà bảo hiểm khác thông qua hai hình thức: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. a. Đồng bảo hiểm: là phương thức bảo hiểm mà nhiều công ty bảo hiểm cùng lúc nhận đảm bảo cho cùng một rủi ro.  Ưu điểm khi tiến hành đồng bảo hiểm là rủi ro được phân tán nhanh do khi xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm có thể thu bồi thường từ các nhà tái bảo hiểm. Mặt khác, việc phân tán rủi ro qua hình thức đồng bảo hiểm cũng đơn giản, dễ hiểu và dễ tính toán. Tuy nhiên đồng bảo hiểm lại có những nhược điểm như ký kết hợp đồng gặp nhiều khó khăn và thời gian kéo dài do người được bảo hiểm phải cùng lúc đàm phán và ký kết hợp đồng với nhiều công ty bảo hiểm, do đó sẽ mất hết thời cơ trong kinh doanh. Mặt khác, khi tổn thất xảy ra việc giải quyết bồi thường sẽ rất khó tập trung được một lúc nên người tham gia bảo hiểm sẽ không có điều kiện tập trung vốn để khôi phục sản xuất kinh doanh và có thể dẫn đến việc nghi ngờ khả năng tài chính của các nhà bảo hiểm. b. Tái bảo hiểm: là phương thức bảo hiểm trong đó, một nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một phần rủi ro cho một hoặc nhiều nhà bảo hiểm khác.  Tác dụng của tái bảo hiểm được thể hiện ở một số mặt sau: Rủi ro được phân tán nhanh do sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc có thể tiến hành thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm từ các công ty tái, do đó mà tránh phá sản cho các công ty bảo hiểm gốc đặc biệt trong những trường hợp rủi ro mang tính thảm hoạ hoặc sự kiện bảo hiểm xảy ra dồn dập. Từ đó giúp ổn định hoạt động kinh doanh của công ty. Tăng năng lực cho các công ty bảo hiểm gốc để chấp nhận các dịch vụ, giữ được khách hàng, từ đó nâng cao uy tín cho công ty bảo hiểm gốc. Công ty bảo hiểm gốc còn được hưởng một tỷ lệ hoa hồng nhất định từ các nhà nhận tái bảo hiểm (chỉ áp dụng trong tái bảo hiểm theo tỷ lệ). Ký kết hợp đồng được dễ dàng hơn, thời gian ngắn hơn. Góp phần tăng thu ngân sách cho Nhà nước thông qua thuế do các công ty bảo hiểm đóng góp, tăng thu ngoại tệ từ việc nhận tái bảo hiểm từ nước ngoài. Đồng thời góp phần đảm bảo đời sống cán bộ, công nhân viên của công ty bảo hiểm gốc. Do có tái bảo hiểm, các công ty bảo hiểm gốc sẽ tránh khỏi phá sản trong trường hợp rủi ro xảy ra quá lớn qua đó có tác dụng ổn định việc làm cũng như thu nhập của người lao động trong công ty và cho cả công ty. Từ đó gián tiếp bảo vệ quyền lợi cho người tham gia. Mặt khác tái bảo hiểm cũng góp phần tăng cường quan hệ kinh tế giữa các nước. Nhà tái bảo hiểm có thể là công ty trong nước hoặc nước ngoài. Khi đó hoạt động tái bảo hiểm sẽ diễn ra giữa nhiều tổ chức tái bảo hiểm của nhiều quốc gia. Như vậy, một tổn hại có tính thảm hoạ ở một nước, qua tái bảo hiểm sẽ được bù đắp từ những khoản tiền bồi thường mang tính quốc tế. Rủi ro được phân tán trên phạm vi rộng, việc gánh chịu tổn thất trở nên dễ dàng hơn. 1.2 Bản chất và chức năng của tái bảo hiểm. Như đã phân tích ở trên, tái bảo hiểm là nghiệp vụ thông qua đó một công ty bảo hiểm (công ty bảo hiểm gốc hay công ty nhượng tái bảo hiểm) chuyển cho một hoặc nhiều công ty bảo hiểm khác (công ty nhận tái bảo hiểm) một phần rủi ro đã nhận đối với một đối tượng bảo hiểm nhất định trên cơ sở chuyển nhượng bớt một phần số phí bảo hiểm đã nhận. Chính vì vậy bản chất của tái bảo hiểm có thể được xem như là một cơ chế phân tán rủi ro giữa các nhà bảo hiểm với nhau trên cơ sở các hợp đồng. Điều đó có nghĩa là các công ty bảo hiểm cũng muốn giảm bớt âu lo, tìm kiếm sự an toàn cho sự tồn tại của chính họ bằng việc mua tái bảo hiểm. Trong cùng một lúc dựa vào khả năng tài chính và mối quan hệ kinh doanh của họ trong thị trường bảo hiểm. Từ góc độ kỹ thuật, hoạt động tái bảo hiểm cho phép các công ty bảo hiểm phân tán bớt rủi ro cho các công ty bảo hiểm khác sau khi đã giữ lại phần rủi ro có thể đảm nhận. Mặt khác, nhìn từ góc độ tài chính, khả năng giữ lại của một công ty bảo hiểm phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh tài chính của nó. Phần vượt quá khả năng giữ lại đó cần phải được bù đắp, hỗ trợ của các công ty nhận tái bảo hiểm. Xuất phát từ bản chất trên mà khi xem xét chức năng của tái bảo hiểm cần phải được nhìn nhận dưới hai góc độ. Dưới góc độ các công ty bảo hiểm: Chức năng đối với các công ty nhượng tái bảo hiểm là san sẻ được những tổn thất lớn liên quan đến mình, phân tán được giữa những tổn thất lớn và những tổn thất nhỏ theo một biên độ đã dự kiến trước. Từ đó chủ động xác định mức giữ lại và tái đi một cách hợp lý. Còn đối với các công ty tái bảo hiểm, tái bảo hiểm có chức năng là mở rộng kinh doanh để tăng doanh thu và ngoại tệ từ các dịch vụ nhận tái. Việc giúp ổn định kinh doanh cho công ty bảo hiểm gốc cũng chính là giúp hoạt động kinh doanh của mình được ổn định. Dưới góc độ Nhà nước: Bên cạnh việc tạo sự ổn định cho các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm cũng gián tiếp giúp các doanh nghiệp, các cá nhân, các chủ thể nền kinh tế tham gia bảo hiểm ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó đảm bảo ổn định và sự phát triển vững chắc cho nền kinh tế trong nước. Ngoài ra, tái bảo hiểm cũng giữ Nhà nước đảm bảo chức năng đối ngoại trong các nền kinh tế mở từ đó đảm bảo ổn định thu ngân sách và ngoại tệ. 1.3 Lịch sử phát triển của tái bảo hiểm. Một điều có tính quy luật là kinh tế - xã hội càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân càng cao thì nhu cầu về bảo hiểm càng lớn. Như vậy, sự phát triển của bảo hiểm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội. Trong khi đó tái bảo hiểm lại là hoạt động gắn bó chặt chẽ với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, là một phần cơ bản trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Chính vì vậy mà lịch sử phát triển của tái bảo hiểm không thể tách rời được với sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi thời kỳ. Theo đó, sơ lược phát triển của tái bảo hiểm có thể được chia làm ba giai đoạn: 1.3.1 Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm (từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19). Theo tài liệu mà các nhà nghiên cứu thu thập được cho đến nay có thể khẳng định nước Ý là nước đầu tiên chứng kiến sự ra đời của dịch vụ tái bảo hiểm. Bản thoả ước cổ nhất có tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm được ký kết vào năm 1370 nhằm đảm bảo cho chuyến hàng hoá vận chuyển trên biển có hành trình từ Genés đến Bruges. Hợp đồng được ký kết giữa một bên hai thương nhân hoạt động với tư cách là nhà tái bảo hiểm với một bên là đại diện cho một nhà bảo hiểm. Sau này cùng với sự phát triển rộng rãi của những mối quan hệ thương mại giữa các thành phố của nước Ý và giữa các nước Bắc Âu, đặc biệt là nước Anh, dịch vụ tái bảo hiểm ngày càng có điều kiện phát triển. Do đây là giai đoạn đầu của thị trường tái bảo hiểm nên mới được thực hiện chủ yếu với các nghiệp vụ như hoả hoạn, hàng hải và nhân thọ. Và đặc điểm chủ yếu của giai đoạn này là hầu hết chỉ tái bảo hiểm trong nước với nhau với hình thức tái bảo hiểm chủ yếu là tuỳ ý lựa chọn. Đồng bảo hiểm được áp dụng nhiều hơn tái bảo hiểm. Ngoài ra quan hệ giữa công ty bảo hiểm gốc và các nhà nhận tái bảo hiểm được thực hiện trên cơ sở pháp luật của quốc gia mà công ty nhượng tái bảo hiểm tiến hành. Một đặc điểm nữa trong giai đoạn này là phương pháp tái bảo hiểm rất đơn giản, chủ yếu là tái bảo hiểm số thành và mức dôi. Tuy nhiên, sau đó đã xuất hiện nhiều vụ lạm dụng có tính chất con buôn gây ra nhiều phản ứng chống lại bản chất của tái bảo hiểm. Đó là những trường hợp mà các nhà tái bảo hiểm đã lợi dụng hình thức tái bảo hiểm để phân tán rủi ro nhưng theo tỷ lệ phí thấp hơn nhiều so với phí bảo hiểm gốc để kiếm lời. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự ra đời đạo luật cấm các hoạt động tái bảo hiểm hàng hải ở nước Anh trong một thời gian dài từ 1746 – 1864. Đạo luật này đã vô hình chung tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức Lloyd’s phát huy ảnh hưởng của mình bằng cách đồng bảo hiểm và sau 1864 đã nghiễm nhiên trở thành thị trường tái bảo hiểm quan trọng nhất thế giới. 1.3.2 Giai đoạn từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20. Giữa thế kỷ 19, nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa có những bước phát triển vượt bậc nhờ việc ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Giao lưu hàng hoá giữa các nước ngày càng mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường tái bảo hiểm trưởng thành và phát triển. Nhiều tổ chức tái bảo hiểm chuyên nghiệp ra đời, mà đầu tiên phải kể đến là nước Đức với công ty tái bảo hiểm Kohn thành lập năm 1846. Sau đó hàng loạt các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp có tên tuổi trên thị trường hiện nay cũng được thành lập như công ty tái bảo hiểm Thuỵ Sĩ năm 1863, Công ty tái bảo hiểm Luân Đôn năm 1869, Công ty tái bảo hiểm Munich năm 1880. Có thể nói đây là giai đoạn tái bảo hiểm phát triển rộng khắp ở các thị trường trên thế giới. Trong đó các nghiệp vụ thường áp dụng tái bảo hiểm nhiều nhất là hàng không, kỹ thuật và dầu khí. Mặt khác quan hệ giữa các công ty nhượng và các nhà tái bảo hiểm lúc này không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà đã mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Mà thị trường Lloyd’s vẫn là trung tâm thế giới về bảo hiểm và tái bảo hiểm. Giai đoạn này cũng chứng kiến sự xuất hiện đầy đủ tất cả các phương pháp và hình thức tái bảo hiểm. Tuy nhiên với hai cuộc chiến tranh thế giới cùng với các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát đã làm tổn hại lớn đến sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và ngành tái bảo hiểm nói riêng. Bị tổn hại nhiều nhât là các công ty tái bảo hiểm của Đức. Các giới tư bản độc quyền đã lấy vốn và quĩ tiền tệ bảo hiểm của các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm để chi tiêu trong chiến tranh. Chính vì vậy mà đến cuối giai đoạn này thị trường tái bảo hiểm thế giới bị trầm lắng hẳn. 1.3.3 Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc năm 1945 với thắng lợi thuộc về Hồng quân Liên Xô và các nước đồng minh. Cục diện thế giới thay đổi: hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời, phong trào giải phóng dân tộc của nhiều nước thuộc địa giành thắng lợi, chủ nghĩa đế quốc lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế mới…Tất cả đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế nói chung, ngành bảo hiểm – tái bảo hiểm nói riêng. Sự kiện này đã ảnh hưởng lớn đến chiều hướng phát triển của tái bảo hiểm quốc tế. Các nước xã hội chủ nghĩa đã thực hiện nhiều biện pháp mang tính độc quyền về tái bảo hiểm và hạn chế quan hệ với thị trường tái bảo hiểm tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật mà qui mô sản xuất kinh doanh ngày càng được mở rộng và những tài sản có giá trị lớn ngày càng tăng. Những bất đồng trong chiến tranh ngày càng được đẩy lùi vào quá khứ làm cho quan hệ quốc tế phát triển nhanh chóng và mang tính toàn cầu. Xã hội phát triển, nhiều ngành nghề mới ra đời nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Mặt khác một số dịch vụ liên quan đến con người có giá cả ngày càng đắt đỏ. Đó là những nguyên nhân chính giúp thị trường tái bảo hiểm thế giới giai đoạn này phát triển nhanh nhất chưa từng thấy. Đặc trưng chủ yếu của thị trường tái bảo hiểm giai đoạn này là thị trường tái bảo hiểm đi theo xu hướng toàn cầu hoá. Các công ty tái bảo hiểm của CHLB Đức đã phục hồi nhanh chóng, sớm khôi phục lại địa vị truyền thống của mình và thiết lập các mối quan hệ quốc tế rộng rãi. Nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập và ngày càng có nhiều công ty bảo hiểm tiến hành đồng thời dịch vụ tái bảo hiểm đã khiến cho thị trường tái bảo hiểm trở nên cạnh tranh rất gay gắt. Tuy nhiên tổng kết lại có thể thấy năm thị trường lớn nhất trên thế giới là Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh, Pháp và năm thị trường mới nổi là Trung Quốc, Brazin, Nga, Ấn Độ và Nam Phi. Mặt khác trong giai đoạn này các công ty bảo hiểm gốc và các nhà tái bảo hiểm có quan hệ chặt chẽ theo kiểu song phương và đa phương theo cấp quan hệ Chính phủ. Điển hình là sự ra đời của các tập đoàn tái bảo hiểm như Tái bảo hiểm Châu Phi, Tái bảo hiểm Châu Á, Tái bảo hiểm Asean…Các tập đoàn này vận hành dựa trên cơ sở nhượng bắt buộc hay tự nguyện với nhau giữa các thành viên. Cuối cùng thị trường tái bảo hiểm phát triển đã kéo theo sự phát triển của tất cả các hình thức và phương pháp tái bảo hiểm đặc biệt là các công ty nhượng luôn muốn kết hợp nhiều phương pháp tái bảo hiểm với nhau để thực hiện phân tán rủi ro nhanh hơn, giúp ổn định hơn trong hoạt động kinh doanh. 2. Các hình thức tái bảo hiểm 2.1 Tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn Đây là hình thức tái bảo hiểm đơn giản và cổ điển nhất. Theo hình thức này công ty nhượng có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và ngược lại nhà tái bảo hiểm có quyền chấp nhận hay từ chối rủi ro đó. Thông thường mỗi loại rủi ro đem tái đi hoặc chấp nhận có thể hình thành một hợp đồng tái bảo hiểm tách biệt. a. Thủ tục tiến hành khi tái bảo hiểm theo hình thức này bao gồm các bước: Trước hết công ty nhượng thông báo cho nhà tái bảo hiểm một dịch vụ bảo hiểm nào đó với các rủi ro có liên quan dưới hình thức là phiếu đề nghị có đầy đủ thông tin về số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, phần giữ lại của công ty nhượng, thủ tục phí tái bảo hiểm… Khi nhận được phiếu này, nhà tái bảo hiểm nghiên cứu, xem xét và có toàn quyền lựa chọn nhận toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó trên cơ sở rủi ro được đề nghị. Nếu chấp nhận, nhà tái bảo hiểm sẽ xác nhận phần tham gia của mình bằng cách ghi trực tiếp vào phiếu đề nghị và gửi lại cho công ty nhượng. Tuy nhiên trước khi chính thức chấp nhận hay từ chối, nhà tái bảo hiểm có thể yêu cầu biết thêm chi
Luận văn liên quan